Theo TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), ô tô và sản xuất phụ tùng ô tô là 1 trong 6 ngành công nghiệp chủ lực hiện nay. Số liệu từ Cục công nghiệp (Bộ Công Thương) cho thấy, ngành Công nghiệp ô tô Việt Nam đã có sự phát triển nhanh trong vài năm lại đây. Số lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước có tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 10% trong giai đoạn 2015 - 2018, đạt 250.000 xe vào năm 2018.
Tuy nhiên, sản lượng năm 2017 và 2018 lại giảm khoảng 9% và 3% so với năm trước đó. Việc sụt giảm này được đánh giá là do tác động của việc giảm thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc từ các nước ASEAN, từ mức 50% năm 2015, xuống 40% năm 2016, 30% năm 2017 và 0% năm 2018. Nền tảng sản xuất còn thấp là một trong những nguyên nhân làm nền công nghiệp ô tô không ứng phó được với cạnh tranh về giảm thuế. Sau gần 20 năm phát triển ngành công nghiệp ô tô trong nước, đến nay phân khúc xe khách, xe tải cơ bản đáp ứng mục tiêu đề ra là 20% và 45% theo từng loại xe. Riêng với xe dưới 9 chỗ, tỷ lệ nội địa hóa mới đạt bình quân 7 - 10%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra, trong khi tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt tới 70 - 80% như ở Thái Lan.
Bên cạnh đó, ngành Công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn ở quy mô nhỏ, hơn 80% linh kiện cho sản xuất xe trong nước là nhập khẩu. Do đó, cần xác định linh kiện có lợi thế để nội địa hóa, nếu không vẫn phải buộc xuất khẩu. Đây là những đánh giá được đại diện Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Trung Hiếu, Trưởng ban chính sách (VAMA) cho biết, đến hết năm 2018, cả nước có 358 doanh nghiệp sản xuất liên quan đến ô tô; trong đó, có 50 doanh nghiệp lắp ráp ô tô, 45 doanh nghiệp sản xuất khung gầm, thân xe, thùng xe; 214 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô… số lượng doanh nghiệp này thấp hơn so với các nước trong khu vực ở Malaysia và Thái Lan. Ngoài ra, số doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp hỗ trợ là khoảng 1.800 doanh nghiệp, trong đó, chỉ có khoảng 300/1.800 doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia.
“Công nghiệp ô tô đang đi sau các nước trong khu vực khoảng 20 năm, nên cần có chính sách khuyến khích đột phá, chính sách hỗ trợ cụ thể và thiết thực. Nếu vẫn làm như chính sách đang có, khoảng cách vẫn thế, 10 năm nữa họ vẫn đi trước, do đó cần có chính sách đột phá để bắt kịp xu thế…”, ông Nguyễn Trung Hiếu nhìn nhận.
Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) cũng chỉ ra một số nguyên nhân chính mà ngành Công nghiệp ô tô Việt Nam chưa phát triển được là do chính sách. Do vậy, trong thời gian tới, để đảm bảo chủ trương phát triển ngành công nghiệp chủ lực này cần hoàn thiện một số cơ chế chính sách khuyến khích nội địa, gỡ bỏ rào cản nhập khẩu.
Trước thực tế này, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính đề xuất, thời gian tới phải tập trung nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích tập đoàn, ưu đãi kèm chuyển giao công nghệ. Chính sách thuế liên quan khuyến khích dòng xe thân thiện môi trường như dung tích nhỏ… Thu hút nhà đầu tư nước ngoài thì chính sách thuế không chỉ bao gồm với nhà đầu tư mà cả cho người tiêu dùng; đồng thời, miễn thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng hóa sản xuất trong nước, mà không nhập khẩu nước ngoài. Ngoài chính sách thuế, cần chính sách tài chính khác liên quan đến đất đai, tín dụng… để triển khai các cụm công nghệ ô tô theo chuỗi giá trị.
TS. Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cũng cho rằng, để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thì cần những ưu đãi tín dụng. Như Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ưu tiên cho doanh nghiệp chế tạo/công nghiệp hỗ trợ. Hay có chương trình bảo lãnh tín dụng theo chuỗi từ Chính phủ, công ty đầu chuỗi, ngân hàng đến doanh nghiệp.
Để ngành Công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển, theo ông Nguyễn Trung Hiếu, cần có hỗ trợ tín dụng, tiếp cận vốn vay và quỹ phát triển; trong đó, tập trung tháo gỡ khó khăn về chính sách thuế, cần xem xét sửa đổi, bổ sung các luật về thuế như thuế VAT, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng điều chỉnh phương thức khấu trừ thuế VAT đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ sản xuất; thuế xuất nhập khẩu phụ tùng, linh kiện và quy định miễn thuế nhập khẩu đối với hoạt động xuất khẩu; sửa đổi, bổ sung quy định về chuyển tiếp ưu đãi thuế, trong đó có chuyển tiếp ưu đãi thuế đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ…