80 năm dựng xây và đổi mới - Bài cuối: Việt Nam - Kỳ tích kinh tế vươn tầm khu vực

80 năm sau ngày giành độc lập, Việt Nam đã trải qua một chặng đường ấn tượng: Từ một quốc gia nghèo, chịu gánh nặng tàn dư chiến tranh, vươn mình trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình năng động.

Chú thích ảnh
Các dự án FDI tại Quảng Ngãi đã tạo việc làm và thu nhập cho nhiều động địa phương. Ảnh tư liệu: Hoàng Hiếu/TTXVN

Dưới góc nhìn quốc tế, “câu chuyện Việt Nam” là minh chứng hiếm có về sức mạnh cải cách, khả năng thích ứng và sự kiên cường của một dân tộc trong bối cảnh toàn cầu biến động. Hành trình này không chỉ tạo nên một kỳ tích kinh tế mà còn khẳng định vị thế mới của đất nước trên trường quốc tế.

Thành tựu từ giảm nghèo đến ổn định vĩ mô

Kể từ công cuộc đổi mới năm 1986, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng hơn sáu lần, vượt ngưỡng 4.700 USD vào cuối năm 2024, trong khi quy mô nền kinh tế mở rộng gần 100 lần. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ nghèo cùng cực - vốn chiếm gần một nửa dân số vào năm 1990 - nay đã giảm xuống dưới 1%. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đánh giá đây là một trong những quá trình giảm nghèo nhanh nhất trong lịch sử hiện đại.

Cùng với tăng trưởng, Việt Nam cũng đạt bước tiến đáng kể về an sinh xã hội. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế hiện đạt khoảng 93%; tỷ lệ người có trình độ đại học đã tăng gấp đôi trong ba thập kỷ qua. Hạ tầng y tế, giáo dục và mạng lưới an sinh ngày càng được cải thiện, tạo nền tảng nâng cao chất lượng cuộc sống và hỗ trợ tăng trưởng dài hạn.

Bà Mariam J. Sherman - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam, Campuchia và CHDCND Lào nhấn mạnh: “Không nhiều quốc gia có thể vươn lên nhanh và xa đến vậy, từ tro tàn của chiến tranh để trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình năng động chỉ trong chưa đầy nửa thế kỷ. Câu chuyện phát triển của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho thế giới, chứng minh sức mạnh của cải cách kiên định và nỗ lực phi thường của nhân dân”.

Ở góc nhìn đối tác phát triển, ông Hugo Pierrel - Phó Giám đốc Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tại Việt Nam nhận định thành quả tăng trưởng gắn chặt với năng lực điều hành vĩ mô và chiến lược hội nhập sâu rộng: Việt Nam đã khéo léo tận dụng thương mại tự do, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đồng thời sử dụng hiệu quả nguồn lực hỗ trợ quốc tế để mở rộng xuất khẩu và nâng cấp nền sản xuất.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ghi nhận, trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát và biến động tỷ giá, Việt Nam vẫn duy trì ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát quanh mức 4% và giữ nợ công dưới 36% GDP - ngưỡng an toàn so với nhiều nền kinh tế mới nổi. 7 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 262 tỷ USD, tăng gần 15% so với cùng kỳ; nhập khẩu tăng gần 18%. Việt Nam hiện thuộc nhóm 15 quốc gia đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới, với vốn giải ngân năm 2024 đạt kỷ lục 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước.

Đáng chú ý, trong thời gian qua, giải ngân đầu tư công của Việt Nam cũng đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Ngày 19/8, nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, Việt Nam đã khánh thành và khởi công 250 dự án, công trình, với tổng mức đầu tư 1,28 triệu tỷ đồng. Các dự án này sẽ đóng góp trên 18% GDP ngay trong năm 2025 và dự kiến vượt 20% trong các năm tiếp theo, phản ánh quyết tâm nâng cấp hạ tầng chiến lược của Chính phủ. OECD trong báo cáo mới nhất khẳng định: Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều thập niên, với động lực cốt lõi đến từ những cải cách sâu rộng và liên tục kể từ cuối thập niên 1980.

Chuyển động để bứt phá

Chú thích ảnh
Bốc dỡ hàng hóa tại Cảng Hải Phòng. Ảnh minh họa: An Đăng/TTXVN

Mặc dù kinh tế tăng trưởng mang nhiều gam màu sáng, nhưng Việt Nam vẫn phải đối diện với những phép thử khắt khe trên hành trình hướng tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. WB chỉ ra rằng tăng trưởng nhiều năm qua chủ yếu dựa vào huy động vốn và lao động, trong khi động lực năng suất còn hạn chế: năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chỉ tăng bình quân khoảng 0,9%/năm trong thập kỷ qua. Cơ cấu lao động chuyển dịch chưa trọn vẹn khi khoảng 1/3 lao động vẫn ở lĩnh vực nông nghiệp; công nghiệp chế biến chế tạo thiên về lắp ráp, giá trị gia tăng trong nước còn thấp.

Thách thức bên ngoài cũng gia tăng: tăng trưởng toàn cầu chậm lại, chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng và dịch chuyển chuỗi cung ứng dấy lên nhiều bất định. Với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như Việt Nam, việc duy trì tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người khoảng 6%/năm trong hai thập kỷ tới – ngưỡng cần có để đạt mục tiêu năm 2045 sẽ đòi hỏi những bước tiến quyết liệt về thể chế, năng suất và chất lượng tăng trưởng.

Trên nền tảng thành tựu đã có, các tổ chức quốc tế khuyến nghị Việt Nam cần đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo bốn trụ cột lớn. Trước hết là khai phóng khu vực tư nhân trong nước. Nghị quyết 68-NQ/TW xác định khu vực tư nhân là động lực quan trọng nhất, với mục tiêu đạt 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030. Để hiện thực hóa, cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh: tinh gọn thủ tục hành chính, mở rộng số hóa dịch vụ công, bảo đảm thực thi chính sách công bằng và minh bạch để doanh nghiệp yên tâm đầu tư, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.

Tiếp theo là đầu tư cho con người và công nghệ. WB nhận định, tỷ lệ chi cho nghiên cứu – phát triển (R&D) mới khoảng 0,5% GDP, thấp so với các nền kinh tế công nghiệp mới. Việt Nam cần khuyến khích R&D qua ưu đãi thuế, chương trình đồng tài trợ nghiên cứu, đồng thời tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và khu vực FDI để lan tỏa công nghệ. Ở phía cung lao động, hệ thống giáo dục – đào tạo cần cập nhật kỹ năng thế kỷ XXI: năng lực số, tư duy phân tích, kỹ năng mềm; mở rộng đào tạo nghề và mô hình học việc tại doanh nghiệp.

Trụ cột thứ ba là tăng trưởng xanh gắn với hạ tầng thích ứng. Mô hình “tăng trưởng bằng mọi giá” đã bộc lộ giới hạn về môi trường - xã hội. Cả WB và ADB đều khuyến nghị Việt Nam mở rộng năng lượng tái tạo, thúc đẩy nông nghiệp sạch và công nghiệp ít phát thải, đồng thời xây dựng hạ tầng chống chịu biến đổi khí hậu. Từ góc độ AFD, bốn ưu tiên cần được lồng ghép xuyên suốt chính sách gồm: chuyển đổi sản xuất - tiêu dùng theo hướng phi carbon, giảm phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch; tích hợp thích ứng khí hậu trong mọi cấp chính sách; củng cố nền tảng hạ tầng - thể chế làm bệ đỡ tăng trưởng; và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng năng suất và giá trị gia tăng.

Cuối cùng là hiện đại hóa thể chế. WB nhấn mạnh, xây dựng một Chính phủ hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm giải trình là điều kiện tiên quyết cho một nền kinh tế thị trường ngày càng phức tạp. Điều này đòi hỏi tinh gọn bộ máy, thượng tôn pháp luật, phân quyền gắn với cơ chế khuyến khích, kiểm soát rõ ràng, đồng thời phát triển đội ngũ công chức chuyên nghiệp, liêm chính.

Chú thích ảnh
Cao tốc Hà Nội - Hải Phòng là dự án trọng điểm quốc gia của ngành giao thông vận tải, khánh thành ngày 5/12/2015, là cao tốc đầu tiên của Việt Nam được thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN

Chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển đã đưa Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn trở thành câu chuyện truyền cảm hứng của cộng đồng quốc tế. Thành tựu hôm nay kết tinh từ cải cách liên tục, hội nhập sâu rộng và sự đồng lòng của toàn xã hội. Nhưng phía trước vẫn là hành trình đòi hỏi quyết tâm và sáng tạo. Như bà Sherman khẳng định: Khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 là táo bạo nhưng “hoàn toàn trong tầm tay” nếu những thách thức hôm nay được đáp lại bằng chính sách và hành động tương xứng.

Trong không khí kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, nhìn lại để tự tin bước tới, thông điệp từ các tổ chức quốc tế đã vang lên rõ ràng: Việt Nam đã tạo nên cảm hứng phát triển; giờ là lúc biến cảm hứng ấy thành hành động, để viết tiếp câu chuyện thịnh vượng của thế kỷ XXI.

Diệu Linh (TTXVN)
Sự kiện kinh tế Việt Nam nổi bật tuần qua
Sự kiện kinh tế Việt Nam nổi bật tuần qua

Báo Tin tức và Dân tộc (TTXVN) điểm lại những sự kiện kinh tế Việt Nam nổi bật tuần qua.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN