Cùng với Nghị quyết 57, việc triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và chuẩn bị dự thảo Luật Chuyển đổi số trình Quốc hội tại kỳ họp tới là những bước tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý mới thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trên cả nước.
Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh tỉnh Đắk Lắk tạo lập và phân quyền cho các sở, ban, ngành và 102 xã phường trên toàn tỉnh. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN
Chuyển biến mạnh mẽ trong thực tiễn
Để cụ thể hóa các đường lối của Đảng trong quá trình triển khai công tác chuyển đổi số, từ năm 2020 đến nay, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã liên tục ban hành nhiều quyết định chiến lược nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số. Tiêu biểu là Quyết định 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng 2030, với ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; Quyết định 942/QĐ-TTg (2021) về Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số; và Quyết định 411/QĐ-TTg (2022) về Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số.
Đặc biệt, Nghị quyết 57-NQ/TW đã nâng tầm vai trò của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số thành trụ cột chiến lược quốc gia. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 03/NQ-CP (9/1/2025) và Nghị quyết 71/NQ-CP (1/4/2025) để cụ thể hóa thành các chương trình hành động.
Tính đến hết tháng 9/2025, trong tổng số 679 nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết số 71/NQ-CP, có 277 nhiệm vụ đã hoàn thành (186 trong hạn, 91 quá hạn), 24 nhiệm vụ quá hạn chưa hoàn thành và 378 nhiệm vụ đang thực hiện đúng tiến độ. Với Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW, trong 70 nhiệm vụ được giao, 45 nhiệm vụ đã hoàn thành, 2 nhiệm vụ quá hạn, 23 nhiệm vụ đang triển khai trong hạn.
Các con số này cho thấy chuyển đổi số tại Việt Nam đã được triển khai quyết liệt, với quyết tâm chính trị cao và sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt, việc hoàn thành 186 nhiệm vụ của năm 2025 là minh chứng rõ ràng cho những chuyển biến mạnh mẽ trong thực tiễn.
Tháo gỡ điểm nghẽn thể chế
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, tiến trình chuyển đổi số vẫn đối mặt với không ít rào cản, đặc biệt là những “điểm nghẽn” như chính sách pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn; hạ tầng và dữ liệu còn thiếu đồng bộ, kết nối và liên thông còn hạn chế. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin, nhất là tại cấp cơ sở, vừa thiếu vừa yếu.
Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn gặp khó khăn về chi phí và công nghệ khi thực hiện chuyển đổi số. Bên cạnh đó, vấn đề an toàn, an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người dân trên môi trường số tiếp tục là thách thức cần được giải quyết căn cơ. Những hạn chế này cho thấy nếu thiếu một khung pháp lý đủ mạnh và đồng bộ, tiến trình chuyển đổi số có nguy cơ chậm lại, chưa thể phát huy đầy đủ vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì soạn thảo dự thảo Luật Chuyển đổi số với nhiều điểm mới nhằm tháo gỡ rào cản và thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Theo ông Trần Quốc Tuấn, Trưởng phòng Quản lý đầu tư, Cục Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), dự thảo Luật đã thể chế hóa chủ trương xác định hạ tầng cho chuyển đổi số (bao gồm hạ tầng số, hạ tầng số công cộng, hạ tầng công nghiệp công nghệ số) là hạ tầng chiến lược quốc gia. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và huy động nguồn lực xã hội để xây dựng, hiện đại hóa hạ tầng chuyển đổi số, bảo đảm tính đồng bộ, an toàn, bền vững và xanh, đặc biệt với các dự án có khả năng tạo giá trị kinh tế - xã hội cao và giải quyết các bài toán quốc gia.
Dự thảo Luật cũng quy định chính sách của Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế số trở thành động lực tăng trưởng quan trọng thông qua hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh, hợp tác xã thực hiện chuyển đổi số. Theo đó, chi phí của doanh nghiệp cho chuyển đổi số được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp; khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển các nền tảng số nội địa; đồng thời thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và người lao động trên nền tảng số.
Ông Trần Quốc Tuấn nhận định, các quy định này sẽ giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp ở mọi quy mô, đặc biệt là chi phí đầu tư hạ tầng phục vụ chuyển đổi số; từ đó, các doanh nghiệp có thể tập trung vào nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và giải quyết các bài toán thực tiễn.
Về công nghệ, dự thảo Luật có quy định về phát triển công nghệ số như một trong các biện pháp bảo đảm chuyển đổi số, trong đó, nhấn mạnh việc thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ số; ưu tiên thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ số “Make in Vietnam” trong các dự án đầu tư sử dụng ngân sách nhà nước. Những quy định này được kỳ vọng sẽ giúp doanh nghiệp công nghệ Việt Nam làm chủ công nghệ cho chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua giải quyết các bài toán chuyển đổi số của Việt Nam và đảm bảo tiến trình chuyển đổi số hiệu quả, bền vững.
Đề cập đến vấn đề an toàn, an ninh mạng, ông Trần Quốc Tuấn cho biết, dự thảo Luật quy định nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về an toàn thông tin mạng, an ninh mạng; trách nhiệm của doanh nghiệp nền tảng số trong việc xử lý nội dung độc hại, bảo vệ dữ liệu, nền tảng số và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.
Về bảo vệ quyền lợi cá nhân, dự thảo Luật dành một chương quy định về xã hội số, trong đó tập trung bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên môi trường số. Theo đó, dự thảo xác định định hướng phát triển xã hội số theo nguyên tắc “lấy con người làm trung tâm”; quy định các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trên môi trường số; phổ cập các dịch vụ số cơ bản (danh tính điện tử, chữ ký số, tài khoản số, tài khoản giao dịch điện tử...). Dự thảo cũng quy định chính sách ưu tiên đối với trẻ em, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm đối tượng yếu thế khác; thiết lập cơ chế bảo vệ toàn diện quyền trẻ em trên môi trường số và xây dựng khung ứng xử văn minh trên môi trường số; xây dựng và lan tỏa văn hóa ứng xử văn minh, nhân văn trên môi trường số.
Các quy định này kỳ vọng sẽ góp phần xây dựng “niềm tin số”, giúp người dân và doanh nghiệp yên tâm tham gia hoạt động trên môi trường số, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên môi trường số; đồng thời giúp mọi người dân được hưởng thành quả từ chuyển đổi số một cách công bằng, an toàn.
Trong giai đoạn tới, cùng với việc hoàn thành các nhiệm vụ theo Nghị quyết 57-NQ/TW, dự thảo Luật Chuyển đổi số nếu được thông qua và triển khai hiệu quả sẽ tạo hành lang pháp lý vững chắc, đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận và hưởng lợi từ kỷ nguyên số một cách công bằng, an toàn và bền vững. Đây sẽ là bước tiến quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững và hội nhập sâu rộng trong kỷ nguyên số toàn cầu.