Năng lượng hạt nhân đồng hành cùng sự phát triển của đất nước

Ngành hạt nhân Việt Nam được Đảng và Nhà nước quan tâm từ những năm 1954 của thế kỷ trước, đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem là người đặt nền móng đầu tiên cho ngành điện hạt nhân Việt Nam.

Chú thích ảnh
Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 dự kiến xây dựng tại thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam (cũ). Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025), cùng với luồng gió đổi mới của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngành hạt nhân đã có bước phát triển mới, khẳng định vai trò quan trọng trong sự đồng hành và phát triển của đất nước.

Nền móng ngành năng lượng hạt nhân sớm hình thành

Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem là người đặt nền móng đầu tiên cho ngành điện hạt nhân Việt Nam khi năm 1955 trong chuyến thăm Liên Xô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới tại Obninsk - biểu tượng của Liên Xô về khoa học công nghệ tiên tiến và ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình. Những năm sau đó, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến lĩnh vực hạt nhân, lựa chọn sinh viên giỏi và cán bộ xuất sắc nhất gửi sang Liên Xô và các nước Đông Âu học tập nghiên cứu theo ngành hạt nhân như: Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Hiệu, Giáo sư Cao Chi, Giáo sư Phạm Duy Hiển…

Tiến sĩ Võ Văn Thuận, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Hạt nhân, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết: Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam đầu tiên chính là “thủ lĩnh” sáng lập ngành năng lượng nguyên tử và cũng là người tâm huyết triển khai dự án điện hạt nhân ở Việt Nam. Năm 1956, Giáo sư Nguyễn Đình Tứ là tổ trưởng nhóm ba nhà khoa học trẻ của Việt Nam được cử sang hợp tác tại Viện Liên hợp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna (Liên Xô) khi đó mới thành lập và Trung tâm khoa học quốc tế hiện đại gần Thủ đô Moskva trở thành cái nôi đào tạo chuyên gia ngành hạt nhân cho Việt Nam. Đến nay, lịch sử Dubna vẫn tự hào ghi nhận hai bằng phát minh có tên Giáo sư Nguyễn Đình Tứ và Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu.

Trong thế hệ tiên phong, còn nhiều cái tên được nhắc đến khi góp phần khai mở ngành “nguyên tử - hạt nhân” Việt Nam như: Phó Giáo sư Hoàng Hữu Thư - người đầu tiên tổ chức bộ môn vật lý hạt nhân; Giáo sư Nguyễn Hữu Xý - người lập môn điện tử hạt nhân tại Khoa Lý Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (Nay là Trường Đại học Tự nhiên). Nhà vật lý hạt nhân đầu tiên Đinh Ngọc Lân - chuyên gia truyền bá kiến thức năng lượng nguyên tử cho nhiều thế hệ.

Ngành năng lượng nguyên tử ban đầu có các nhà vật lý xuất sắc như: Giáo sư Phạm Duy Hiển; Phó Giáo sư Nguyễn Nguyên Phong; Giáo sư Trần Hữu Phát; Phó Giáo sư Nguyễn Tiến Nguyên.., và các nhà hóa học hạt nhân - phóng xạ tài năng như Giáo sư Đặng Vũ Minh; Phó Giáo sư Nguyễn Mộng Sinh… Các nhà khoa học thế hệ đầu tiên này trưởng thành chủ yếu từ nghiên cứu cơ bản nên kiến thức khoa học uyên thâm và nhạy bén với các ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Những cán bộ được Đảng và Nhà nước gửi đi đào tạo ở nước ngoài đã trở về phục vụ đất nước và xây dựng, phát triển ngành hạt nhân của Việt Nam trong đó có dự án cải tạo, khôi phục và đưa vào vận hành, khai thác an toàn và hiệu quả lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu tại Đà Lạt. Dự án cải tạo khôi phục thành công và Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu Đà Lạt tái vận hành từ năm 1984 bằng nhiên liệu mới của Liên Xô với công suất 500 kW, gấp đôi so với trước đó.

Trong những năm tiếp theo, khi Việt Nam đang cùng lúc xây dựng các cơ sở khoa học, kỹ thuật hạt nhân ở Hà Nội, Đà Lạt và Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Nguyễn Đình Tứ vẫn ưu tiêu dành các dự án viện trợ kỹ thuật của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đợt đầu cho Đà Lạt, điều này đã sớm đưa các ứng dụng hạt nhân vào thực tiễn phục vụ sản xuất và đời sống.

Trăn trở phát triển điện hạt nhân - nguồn năng lượng sạch

Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam đầu tiên đã rất chú trọng công việc và đặc biệt coi trọng chuẩn bị nhân lực và tổ chức nghiên cứu quy hoạch đưa điện hạt nhân vào Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi xảy ra tai nạn tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl tình hình rất khó khăn, nhưng Giáo sư Nguyễn Đình Tứ vẫn kiên trì dẫn dắt thực hiện những công việc vốn không dễ được đồng thuận. Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam khi đó có hai đề tài cấp nhà nước, trong đó đề tài 50A do Giáo sư Phạm Duy Hiển chủ trì nhằm phát triển mở rộng nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật hạt nhân trên cơ sở một số nội dung đã được bắt đầu ở Đà Lạt. Giáo sư Nguyễn Đình Tứ chủ nhiệm đề tài 50B hướng vào các vấn đề công nghệ thăm dò, khai thác mỏ uran và đất hiếm, nghiên cứu chế biến nhiên liệu, vật liệu và chuẩn bị cho Việt Nam từng bước làm chủ công nghệ trong phát triển điện hạt nhân.

Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước khi nguồn hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa gặp khó khăn, Chính phủ Việt Nam đã ký hợp tác song phương với Ấn Độ để đào tạo nhân lực và hỗ trợ công nghệ như: Năm 1988, Việt Nam nhận chuyển giao một hệ thiết bị bán công nghiệp kèm quy trình xử lý quặng các nguyên tố hiếm ở chi nhánh Đan Phượng của Viện Công nghệ xạ hiếm do Tiến sĩ khoa học Thái Bá Cầu chủ trì. Thiết bị nhanh chóng được lắp đặt và vận hành rất hiệu quả.

Năm 1986, Giáo sư Nguyễn Đình Tứ đã trực tiếp lập trung tâm máy tính tại Hà Nội với giàn các máy PC thế hệ đầu tiên để gắn kết với dự án viện trợ kỹ thuật của IAEA về quy hoạch điện hạt nhân. Các đồng nghiệp Phòng nghiên cứu Điện nguyên tử do Giáo sư Cao Chi phụ trách (sau này trở thành Trung tâm Nghiên cứu quy hoạch điện hạt nhân tại Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân), đã sử dụng công cụ này tính toán quy hoạch điện hạt nhân trên phiên bản chương trình do IAEA cung cấp.

Quá trình đưa điện hạt nhân vào Việt Nam được đẩy mạnh vào những năm 1992-1996 nhờ nguồn kinh phí từ Chương trình Khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KC-09 “Kỹ thuật hạt nhân” do Giáo sư Nguyễn Đình Tứ làm chủ nhiệm. Lúc đầu Chương trình có 16 đề tài về các kỹ thuật hạt nhân, công nghệ bức xạ, thủy văn đồng vị, y học hạt nhân, thăm dò địa chất, công nghệ nguyên liệu, nhiên liệu hạt nhân, an toàn bức xạ… Sau này, Chủ nhiệm Chương trình bổ sung thêm: Đề tài KC-09-17 về nghiên cứu chiến lược phát triển ngành năng lượng nguyên tử và đề tài KC-09-18 về nghiên cứu kiểm soát phóng phóng xạ và bảo vệ môi trường. Trong báo cáo nghiệm thu năm 1996, đề tài KC-09-17 đưa ra một dự báo quan trọng là Việt Nam cần sử dụng hài hòa các nguồn năng lượng khác nhau, trong đó phải triển khai đưa thành phần điện hạt nhân vào Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015.

Năm 1996, Giáo sư Nguyễn Đình Tứ đã vận động lãnh đạo Bộ Công nghiệp nay là Bộ Công thương nhận trách nhiệm thực hiện một nghiên cứu phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam để gắn kết khoa học, công nghệ với ngành kinh tế công nghiệp nhưng đáng tiếc, giữa năm 1996, Giáo sư đột ngột từ trần, nhưng những gì Giáo sư Nguyễn Đình Tứ gợi mở vẫn từng bước được thực hiện với dự án nghiên cứu tổng quan về nhà máy điện hạt nhân (1996 - 1998) do Bộ Công nghiệp chủ trì. Sau Chương trình KC-09 do Giáo sư Nguyễn Đình Tứ làm chủ nhiệm, những đề tài cấp nhà nước về xác định căn cứ khoa học, kinh tế, xã hội cho chương trình điện hạt nhân dài hạn vẫn tiếp tục được thực hiện.

Tại hội nghị Gặp mặt của Tổng Bí thư Tô Lâm với đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Tiến sĩ Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cũng nhấn mạnh: Cho đến nay, những thế hệ kế cận tham gia chương trình năng lượng nguyên tử quốc gia từ những ngày đầu vẫn nỗ lực, tiếp nối đưa dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đến cuối giai đoạn 2 nghiên cứu phê duyệt địa điểm và lập dự án đầu tư xây dựng. Sau 8 năm tạm dừng, từ cuối năm 2024, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 được Đảng và Nhà nước tái khởi động và triển khai thực hiện với một tiến độ cực kỳ khẩn trương để bước sang giai đoạn đầu tư xây dựng.

Hiện nay, ngành hạt nhân Việt Nam đang đứng trước cơ hội phát triển mới khi Việt Nam chính thức tái khởi động dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Hai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đang trong giai đoạn nghiên cứu để tiếp thu và nắm vững công nghệ lò phản ứng hạt nhân mô đun nhỏ SMR để có thể triển khai trong giai đoạn tiếp theo góp phần đảm bảo an ninh năng lượng với nguồn năng lượng an toàn, sạch và tin cậy khi nhà máy điện hạt nhân đi vào hoạt động.

Tiến sĩ Trần Chí Thành tin tưởng đội ngũ cán bộ Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam nói riêng, cũng như những người làm khoa học trong ngành hạt nhân cả nước nói chung sẽ nỗ lực hết sức mình, tâm huyết, dành thời gian và trí tuệ để thúc đẩy và triển khai thành công điện hạt nhân Ninh Thuận và Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân với lò hạt nhân nghiên cứu mới tại Đồng Nai (CNST), đảm bảo phát triển điện hạt nhân an toàn và hiệu quả, đưa ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ bức xạ sâu rộng vào các lĩnh vực, tạo ra những kết quả tốt nhất về khoa học và ứng dụng, công nghệ, đóng góp cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn sắp tới - kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc. Một kỷ nguyên mà ở đó, đội ngũ trí thức sẽ kế tục truyền thống tốt đẹp của cha ông, mang trong mình tố chất của người Việt Nam.

HL (TTXVN)
Năng lượng hạt nhân là bước đi chiến lược trong kỷ nguyên mới
Năng lượng hạt nhân là bước đi chiến lược trong kỷ nguyên mới

Chiều 25/4, tại Viện Nghiên cứu hạt nhân (thành phố Đà Lạt), Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp với UBND tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội thảo chuyên đề “Phát triển và ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển đất nước nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới”.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN