Năm 1800: Hạ viện phải định đoạt kết quả bầu cử
Đây là cuộc bầu cử diễn ra khi các đảng phái chính trị đầu tiên ở Mỹ đang hình thành. Lúc đó, quy trình đại cử tri rất khác ngày nay. Mỗi đại cử tri bỏ phiếu bầu cho hai ứng cử viên và ai nhận được nhiều phiếu nhất sẽ thành tổng thống, còn người về nhì sẽ là phó tổng thống.
Theo hệ thống này, ông Thomas Jefferson và Aaron Burr – người mà ông chọn là phó tổng thống liên danh - đều giành được 73 phiếu đại cử tri do hiểu lầm trong khâu thống nhất ứng viên giữa các đại cử tri đảng Dân chủ-Cộng hòa khi đó. Trong khi đó, đối thủ của ông Jefferson là Tổng thống đương nhiệm lúc bấy giờ John Adams, thành viên đảng Liên bang đối thủ, chỉ giành được 65 phiếu đại cử tri.
Vậy là lần đầu tiên trong lịch sử, cuộc bầu cử được đưa ra Hạ viện để phân định xem ai trong số hai chính khác cùng một đảng là Jefferson và Burr sẽ trở thành tổng thống. Alexander Hamilton, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Mỹ, đã thay đổi tình thế bằng cách vận động các thành viên đảng Liên bang cùng ủng hộ ông Jefferson. Mặc dù ông Hamilton và ông Jefferson không ưa gì nhau nhưng ông Hamilton coi Jefferson là lựa chọn an toàn hơn ông Burr. Cuối cùng, ông Jefferson trở thành Tổng thống Mỹ còn ông Burr trở thành Phó tổng thống.
Sau cuộc bầu cử này, Tu chính án thứ 12 ra đời nhằm quy định rằng các đại cử tri bầu tổng thống và phó tổng thống riêng rẽ.
Năm 1824: Ba ứng viên tổng thống
Trong năm này, đảng Liên bang đã giải tán và toàn bộ bốn ứng viên tổng thống đều là thành viên đảng Dân chủ-Cộng hòa. Ông Andrew Jackson có ít hơn 39.000 phiếu phổ thông và giành 99 phiếu đại cử tri. Bộ trưởng Ngoại giao John Quincy Adams giành 84 phiếu đại cử tri, Bộ trưởng Tài chính William Crawford giành 41 phiếu, còn Chủ tịch Hạ viện Henry Clay giành 37 phiếu. Không ứng viên nào có đa số phiếu đại cử tri nên kết quả bầu cử lại được phân định ở Hạ viện. Do phiếu thấp nhất, ông Clay bị loại khỏi cuộc đua vào Nhà Trắng nhưng ông vẫn nắm quyền kiểm soát Hạ viện.
Sau khi đàm phán hậu trường kéo dài suốt một tháng, người ủng hộ ông Clay đã đứng sau ông Adams, giúp ông chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu tại Hạ viện. Các đại cử tri ở các bang bỏ phiếu cho ông Jackson nhiều nhất đã quay sang bỏ phiếu cho ông Adams.
Khi ông Adams trở thành tổng thống và chọn ông Clay làm ngoại trưởng sau khi nhậm chức, ông Jackson đã rất tức giận, gọi đây là cuộc mặc cả tham nhũng.
Năm 1860: Cuộc bầu cử chia rẽ đất nước
Cuộc bầu cử tổng thống năm 1860 không chỉ gây tranh cãi mà còn chia rẽ đất nước. Ông Abraham Lincoln, ứng viên của đảng Cộng hòa và là người phản đối chế độ nô lệ, thậm chí còn không có tên trên lá phiếu ở hầu hết bang miền nam vốn ủng hộ chế độ nô lệ.
Khi đảng Dân chủ chọn thượng nghị sĩ Stephen Douglas làm ứng viên, nhánh của đảng này ở miền nam đã tách ra, chọn Phó tổng thống đương nhiệm John Breckenridge làm ứng viên.
Ông Lincoln chỉ giành 40% số phiếu phổ thông nhưng giành phần lớn số phiếu đại cử tri ở miền bắc cùng với bang California và Oregon. Ông Breckenridge giành các phiếu đại cử tri ở phần lớn các bang miền nam cùng với Maryland và Delaware.
Chỉ vài tuần sau khi ông Lincoln giành chiến thắng, bang Nam Carolina ly khai. Sáu bang miền nam cũng hành động tương tự, thành lập ra Liên minh miền Nam tháng 2/1861 và bầu ông Jefferson David làm tổng thống. Từ đây, cuộc nội chiến Mỹ bắt đầu.
Năm 1876: Tầm quan trọng của một phiếu đại cử tri
Ứng viên đảng Dân chủ là Thống đốc bang New York Samuel Tilden hơn ứng viên đảng Cộng hòa Rutherford B. Hayes 250.000 phiếu phổ thông và ông Tilden hơn 19 phiếu đại cử tri. Tuy nhiên, ông vẫn thiếu một phiếu nữa mới đủ 185 phiếu theo yêu cầu và lúc đó, 20 phiếu nữa chưa được kiểm đếm ở Florida, Louisiana và Nam Carolina do kết quả quá sít sao. Bên nào cũng cáo buộc bên kia gian lận và mâu thuẫn trở nên gay gắt. Ở Oregon, một đại cử tri còn bị coi là bất hợp pháp và bị thay thế. Khi cuộc khủng hoảng gia tăng, nguy cơ nội chiến lần nữa lại hiện hữu.
Trong bước đi chưa từng có tiền lệ, Quốc hội Mỹ đã thành lập ủy ban 15 thành viên là các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ và thẩm phán tòa án tối cao (7 thành viên Cộng hòa, 7 thành viên Dân chủ và 1 thành viên độc lập) để quyết định cuộc bầu cử. Sau khi một lá phiếu dao động chuyển sang ủng hộ ông Hayes, ông này giành được toàn bộ 20 phiếu đại cử tri từ các bang tranh cãi, có đủ 185 phiếu cần thiết.
Sau khi đảng Dân chủ đe dọa cản trở và ngăn chặn kiểm đếm phiếu, vấn đề này được giải quyết trong các cuộc đàm phán ở khách sạn Wormley tháng 2/1877. Phe Dân chủ sẽ chấp nhận chiến thắng của ông Hayes nếu ông đưa toàn bộ binh sĩ liên bang ra khỏi miền nam cùng với một số điều kiện khác.
Cuộc thỏa hiệp này đã củng cố quyền kiểm soát khu vực miền nam của đảng Dân chủ, chấm dứt Thời kỳ tái thiết và đảo ngược những thành quả mà người Mỹ gốc Phi giành được trong thời kỳ hậu Nội chiến. Đây là một trong số những cuộc bầu cử gây tranh cãi nhất lịch sử Mỹ.
Năm 1912: Ứng viên thành lập đảng thứ ba
Kết thúc 10 tháng khám phá châu Phi từ khi rời Nhà Trắng, ông Theodore Roosevelt lại bị cuốn vào chính trị khi cuộc bầu cử tổng thống năm 1912 tới gần. Sau khi William Howard Taft - bạn thân và là người kế nhiệm do ông Roosevelt lựa chọn - đã khiến ông và các thành viên cấp tiến tức giận khi ngày càng ủng hộ cánh bảo thủ của đảng Cộng hòa, ông Roosevelt đã thách thức ông Taft trong bầu cử sơ bộ.
Không được đảng đề cử, ông Roosevelt đã lập đảng Tiến bộ. Trong mùa tranh cử này, ông Roosevelt đã bị bắn vào ngực khi đang phát biểu ở Wisconsin nhưng may mắn thoát chết.
Về sau, ông và đối thủ Taft chia đôi số phiếu, nhờ đó ứng viên Dân chủ là Woodrow Wilson đã giành chiến thắng dù chưa giành được 50% tỷ lệ ủng hộ ở nhiều bang. Ông Roosevelt đứng thứ hai, còn ông Taft đứng thứ ba.
Cuộc bầu cử đã khiến đảng Cộng hòa thay đổi sâu sắc sau đó.
Năm 2000: Tòa án Tối cao định đoạt kết quả
Cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 tưởng như kéo dài mãi không hồi kết và bị coi là cuộc bầu cử bê bối nhất lịch sử Mỹ. Trong cuộc đua sít sao giữa ông Al Gore của đảng Dân chủ và George W. Bush của đảng Cộng hòa, tất cả tùy vào kết quả kiểm phiếu ở Florida.
Lúc đầu, các kênh truyền hình đều thông báo bang này ủng hộ ông Gore, sau đó lại nói tỷ lệ quá sít sao nên chưa kết luận được, và cuối cùng thông báo bang này ủng hộ ông Bush.
Khi hai ứng viên chỉ chênh nhau vài trăm phiếu bầu ở Florida, các vụ kiện tụng và kiểm phiếu lại đã diễn ra khiến cuộc bầu cử trở nên căng thẳng.
5 tuần dài đằng đẵng sau bầu cử, Tòa án Tối cao Mỹ đã có phán quyết cuối cùng, ngăn chặn quyết định cho kiểm phiếu lại mà Tòa án Thượng thẩm Florida đưa ra với lý do quyết định này vi phạm nguyên tắc hiến pháp.
Ông Bush thắng ở 30 bang (kể cả Florida) và chỉ hơn đối thủ có 5 phiếu. Ông là ứng viên đầu tiên trong 112 năm thắng cử mà không thắng phiếu phổ thông. Ông thua ông Gore 500.000 phiếu phổ thông.
Phe Dân chủ không chấp nhận kết quả trên và đưa ra nhiều cáo buộc về tình hình bỏ phiếu ở bang Florida. Tuy nhiên, cáo buộc không đủ sức nặng để đảo ngược tình thế. Cuộc bầu cử kịch tích, căng thẳng chưa từng có đã kết thúc với phần thắng thuộc về ông Bush.
Năm 2016: Cuộc bầu cử gây sốc
Doanh nhân kiêm nhân vật truyền hình thực tế Donald Trump đã đánh bại cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trong cuộc bầu cử chưa từng có tiền lệ. Bà Hillary chịu thua dù hơn ông Trump 3 triệu phiếu phổ thông.
Ông Trump đã gây bất ngờ khi giành chiến thắng dù chưa từng nắm vị trí nào trong chính quyền trước đó. Bất ngờ hơn là các khảo sát ý kiến cử tri trước bầu cử đều dự báo bà Hillary chiến thắng.