Nguyên nhân chiến tranh
Mặc dù cuộc xung đột kéo dài nhiều năm giữa Iran – Iraq đã kết thúc theo lệnh ngừng bắn do LHQ làm trung gian hồi tháng 8/1988, vào giữa thập niên 1990 hai quốc gia này vẫn chưa khởi động đàm phán về một hiệp ước hòa bình lâu dài. Khi các ngoại trưởng gặp gỡ tại Geneva tháng 7 năm đó, triển vọng về hòa bình tại khu vực Trung Đông bỗng dưng trở nên tươi sáng do có vẻ như nhà lãnh đạo Iraq Saddam Hussein đã sẵn sàng chấm dứt cuộc xung đột và trả lại lãnh thổ đã chiếm đóng.
Thế nhưng, hai tuần sau đó, ông Hussein có bài phát biểu buộc tội nước láng giềng Kuwait hút trộm dầu thô từ mỏ dầu Ar-Rumaylah nằm dọc đường biên giới chung. Ông khẳng định Kuwait và Saudi Arabia đã hủy khoản vay nước ngoài 30 tỷ USD của Iraq, đồng thời cáo buộc họ âm mưu giữ giá dầu ở mức thấp nhằm gây khó khăn cho các quốc gia xuất khẩu dầu sang phương Tây.
Tên gọi
Cuộc chiến tranh có nhiều tên gọi khác nhau. "Chiến tranh Vùng Vịnh" hay "Chiến tranh vịnh Persic" là những thuật ngữ phổ biến nhất để chỉ cuộc xung đột này ở các nước phương Tây. Ngoài ra, cuộc xung đột cũng được gọi là "Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất", chiến dịch "Lá chắn Sa mạc" (Desert Shield) và "Bão táp Sa mạc" (Desert Storm). Ở Anh, các nhà sử học và chính giới gọi đây là Chiến dịch Granby. Tại Kuwait và đa số các nước Arab gọi cuộc chiến là "Chiến tranh giải phóng Kuwait". Trong khi người Iraq gọi cuộc chiến là Um M'aārak - Cuộc chiến của mọi cuộc chiến.
Theo trang History.com, lý giải cho việc ra lệnh quân đội tấn công Kuwait tháng 8/1990, Tổng thống Iraq tuyên bố Kuwait là một nhà nước do thực dân phương Tây dựng lên bên ngoài bờ biển Iraq. Trên thực tế, Kuwait đã được quốc tế công nhận là một thực thể riêng biệt từ trước khi Iraq được Anh thành lập dưới sự ủy quyền của Hội quốc liên sau Thế chiến thứ nhất.
Sau tuyên bố của ông Saddam Hussein, Iraq bắt đầu tập trung quân đội ở biên giới giáp Kuwait. Nhận thấy tình thế "nước sôi lửa bỏng", Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak lên tiếng kêu gọi đàm phán giữa Iraq và Kuwait nhằm tránh sự can thiệp của Mỹ hay các cường quốc khác ngoài Vùng Vịnh. Thế nhưng, ông Hussein đã cắt đứt đàm phán chỉ sau hai giờ.
Iraq tấn công
Ngày 2/8/1990, Tổng thống Hussein ra lệnh quân đội tấn công nước láng giềng Kuwait. Ông dự tính rằng các nước Arab sẽ ủng hộ quyết định của mình, đồng thời không kêu gọi các lực lượng bên ngoài ngăn chặn cuộc chiến, song nó hóa ra là một phép tính sai lầm. 2/3 trong số 21 thành viên của Liên đoàn Arab liền lên án hành động gây hấn của Baghdad. Quốc vương Saudi Arabia và chính phủ lưu vong của Kuwait đã nhờ cậy Mỹ cùng các nước đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) giúp đỡ.
Đúng 1 giờ sáng, 3 sư đoàn của bộ chỉ huy các lực lượng Vệ binh Cộng hòa (RGFC) đã vượt biên giới tấn công vào Kuwait, một sư đoàn bộ binh cơ giới và một sư đoàn thiết giáp thực hiện cuộc tấn công theo hướng nam dọc theo trục Sapwan-Abdally, tiến tới đèo Al-Jalra. Một sư đoàn thiết giáp khác tấn công yểm trợ từ phía tây. Cùng lúc, vào 1 giờ 30 phút, một lực lượng tác chiến đặc biệt thực hiện cuộc tấn công đầu tiên vào thủ đô Kuwait City - một cuộc tấn công bằng trực thăng vào các cơ sở chủ chốt của chính phủ Kuwait.
Trong khi đó, các đội biệt kích đổ bộ bằng đường biển tấn công vào cung điện của quốc vương và các cơ sở quan trọng khác của Kuwait. Quốc vương nước này đã kịp trốn sang Saudi Arabia, nhưng người em trai của thiệt mạng khi quân Iraq tấn công vào cung điện Dasman. Đến tối 2/8, xe tăng của Iraq đã tiến về phía nam dọc theo bờ biển để đánh chiếm những hải cảng.
Ngày 6/8, quân đội Iraq tiếp tục củng cố và bổ sung lực lượng. Vào thời điểm này, ít nhất 11 sư đoàn Iraq đã ở hoặc đang tiến vào Kuwait với quân số lên tới 200.000 người, được trên 2.000 xe tăng yểm trợ.
Mỹ và đồng minh tham chiến
Tổng thống Mỹ George H.W. Bush và hàng loạt nước phương Tây ngay lập tức chỉ trích cuộc xâm lăng của Iraq. Chính phủ Anh và Liên Xô cũ cũng vậy. Đáng lưu ý, Kuwait chính là đối tác xuất khẩu dầu mỏ lớn của Mỹ.
Ngày 3/8/1990, LHQ yêu cầu Iraq lập tức rút quân. Ba ngày sau, Quốc vương Fahd gặp Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Richard Cheney để nhờ hỗ trợ. Ngày 8/8, Chính phủ Iraq chính thức sáp nhập Kuwait, gọi quốc gia này là “tỉnh thứ 19” của Iraq. Cũng hôm đó, phi đội tiêm kích đầu tiên của Không quân Mỹ hạ cánh xuống Saudi Arab nhằm gây dựng lực lượng cho chiến dịch chống Iraq. Những chiếc chiến đấu cơ này được hộ tống bởi binh sĩ NATO, Ai Cập và một vài nước Arab khác, nhằm tạo ra một liên quân đối phó với nguy cơ Iraq tấn công Saudi Arabia.
Tại Kuwait, Iraq tăng lực lượng chiếm đóng lên khoảng 300.000 binh sĩ. Trong nỗ lực để lôi kéo sự ủng hộ từ thế giới Hồi giáo, nhà lãnh đạo Hussein tuyên bố một cuộc thánh chiến chống lại liên quân. Ông chủ động liên kết đồng minh với người Palestine bằng lời đề nghị sơ tán Kuwait đổi lại việc Israel rút khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Khi những nỗ lực trên đều thất bại, Hussein vội vàng ký kết một thỏa thuận hòa bình với Iran cũng như huy động toàn lực quân đội.
Nhiều tuần trôi qua, các bên đều hiểu rõ rằng Tổng thống Hussein không hề có ý định từ bỏ. Ngày 29/11/1990, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) ban hành Nghị quyết 678 cho Tổng thống Iraq thời hạn 6 tuần lễ trước khi liên quân do Mỹ dẫn đầu được phép sử dụng mọi phương tiện cần thiết để đẩy quân đội Iraq khỏi Kuwait. Hạn chót để Baghdad hành động là ngày 15/1/1991.
Vào tháng 1 năm đó, quân số các lực lượng sẵn sàng giáp đấu với Iraq vào khoảng 750.000 lính, trong đó có 540.000 lính Mỹ cùng binh sĩ 38 nước gồm Anh, Pháp, Đức, Liên Xô, Nhật Bản, Ai Cập, Saudi Arabia và các quốc gia Arab khác…
Sau cùng, nhà lãnh đạo Hussein từ chối nhượng bộ. Chiến tranh Vùng Vịnh leo thang ngày 17/1/1991 bằng một cuộc không kích khổng lồ, được biết đến dưới tên gọi Chiến dịch Bão táp Sa mạc.
Sa mạc nổi bão
Nửa đêm 17/1/1991 ở Iraq cũng là lúc yêu cầu của LHQ hết hạn. Lầu Năm Góc chuẩn bị khởi động chiến dịch tấn công buộc Iraq phải rút khỏi nước láng giềng giàu dầu mỏ sau 5 tháng chiếm đóng.
Vào lúc 16h30 giờ bờ Đông nước Mỹ, những chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên xuất kích từ các hàng không mẫu hạm của Mỹ và Anh ở ngoài khơi Vịnh Ba Tư lao vào không phận Iraq và oanh tạc các mục tiêu.
Và sau 17 giờ bay, 7 “pháo đài bay” B-52, cất cánh từ căn cứ không quân Barkdale ở Los Angeles, đã đáp xuống Trung Đông vào ngày 16/1, mang theo tên lửa hành trình dẫn đường bằng định vị vệ tinh đã dội bom các trụ sở chỉ huy, nhà máy điện, cơ sở hậu cần và trạm điện thoại của Iraq.
Suốt đêm đó, các máy bay của liên minh quân sự do Mỹ dẫn đầu đã ném bom rải thảm các mục tiêu ở trong và xung quanh Baghdad, trong đó có nhà máy vũ khí cùng các mỏ dầu. Cùng lúc đó, thế giới theo dõi sự kiện trên qua truyền hình vệ tinh trực tiếp. Vào lúc 19h00, chiến dịch mang mật danh Bão táp Sa mạc chính thức được công bố tại Nhà Trắng.
Tướng Mỹ Norman Schwarzkopf đã chỉ huy liên quân gồm lực lượng của 40 quốc gia. Chiến dịch này là dịp phương Tây phô diễn thế mạnh về công nghệ quân sự hiện đại bao gồm máy bay ném bom tàng hình, tên lửa hành trình, bom thông minh dẫn đường chính xác và thiết bị ném bom tầm nhiệt ban đêm.
Trong 6 tuần tiếp theo, liên quân mở cuộc không chiến quy mô khổng lồ nhắm vào các cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự trọng yếu của Iraq, trong khi chỉ phải đối mặt với sự kháng cự yếu ớt từ lực lượng phòng không của quốc gia Trung Đông này. Máy bay chiến đấu Mỹ cùng liên quân đã xuất kích trên 18.000 lần, triển khai trên 116.000 trận không chiến và thả 88.500 tấn bom. Các lực lượng mặt đất của Iraq kháng cự rất yếu ớt và rơi vào tình trạng bất lực vào thời điểm đó.
Biện pháp trả đũa đáng quan tâm nhất của nhà lãnh đạo Hussein là tấn công bằng tên lửa SCUD nhằm vào Israel và Saudi Arabia. Ông Hussein hy vọng rằng các cuộc tấn công tên lửa sẽ kích động Israel tham gia vào vụ xung đột, do đó phân tán sự ủng hộ của thế giới Arab vào chiến dịch của Mỹ. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Mỹ, Israel vẫn đứng ngoài cuộc chiến.
Bão táp Sa mạc cũng là lần đầu tiên hệ thống tên lửa MIM-104C Patriot của Mỹ được đưa vào thực chiến, nhằm đánh chặn tên lửa SCUD do Iraq phóng vào Israel. Sự kiện này chứng kiến sự “ra mắt” của các loại vũ khí tàng hình, tên lửa dẫn đường chính xác và hỗ trợ không gian trên chiến trường. Ngoài ra, Chiến tranh Vùng Vịnh cũng ghi dấu ấn với các khái niệm tấn công mới, chẳng hạn như “chiến tranh song song” và “chiến tranh dựa trên hiệu ứng”.
Vào ngày 24/2, liên quân triển khai cuộc tấn công quy mô lớn trên bộ với mật danh “Thanh kiếm Sa mạc”. Các lực lượng vũ trang được trang bị nghèo nàn của Iraq nhanh chóng bị áp đảo. Kuwait được giải phóng trong vòng chưa đầy 100 tiếng đồng hồ. Phần lớn các lực lượng của Iraq đã đầu hàng, tháo chạy hoặc bị tiêu diệt. Ngày 27/2, đài phát thanh của Baghdad tuyên bố Iraq sẽ tuân theo nghị quyết của LHQ.
Ngày 28/2, Tổng thống Bush tuyên bố ngừng bắn, kết thúc chiến dịch tấn công của liên quân. Theo các điều khoản hòa bình mà ông Hussein chấp nhận sau đó, Iraq sẽ công nhận chủ quyền của Kuwait và loại bỏ tất cả các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt (bao gồm vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học).
Theo tờ USA Today, Chiến tranh Vùng Vịnh là một trong những cuộc chiến tốn kém nhất Mỹ từng tham gia. Trong thời gian 7 tháng, Washington đã tiêu 116,6 tỷ USD và tổn thất 383 binh sĩ. Ước tính có khoảng 8.000 đến 10.000 lính Iraq đã thiệt mạng, tương đương 1/2 lực lượng trên bộ, gấp nhiều lần so với con số trên 300 người của lực lượng liên quân.
Mặc dù Chiến tranh Vùng Vịnh được công nhận là chiến thắng quan trọng của liên quân nhưng Kuwait và Iraq đã phải gánh chịu những thiệt hại to lớn về người và của.
Hậu quả của Chiến tranh Vùng Vịnh
Ý định ban đầu của lãnh đạo các nước liên minh là thực hiện một cuộc chiến tranh “có giới hạn” với chi phí tối thiểu nhưng trên thực tế hậu quả của cuộc chiến tác động kéo dài trong nhiều năm, cả ở khu vực Vịnh Ba Tư và trên toàn thế giới.
Ngay sau chiến tranh, lực lượng của Tổng thống Hussein theo đuổi cách tiếp cận cứng rắn đối với các cuộc nổi dậy của người Kurd ở phía Bắc và người Shi’ite ở phía Nam của Iraq. Liên minh do Mỹ đứng đầu đã không ủng hộ các cuộc nổi dậy tại Iraq vì sợ rằng nhà nước Iraq sẽ bị giải thể nếu các lực lượng này thành công.
Sau cuộc chiến này, Iraq ngày càng đơn độc hơn trong khu vực.
Trong những năm sau đó, máy bay của Mỹ và Anh tiếp tục tuần tra bầu trời Iraq, đồng thời áp đặt khu vực cấm bay tại đây, trong khi chính quyền Baghdad tìm mọi cách để từ chối thực thi các điều khoản hòa bình, đặc biệt cuộc thanh sát vũ khí của LHQ. Điều này làm tái hiện chính sách thù địch vào năm 1998, sau đó Iraq kiên quyết từ chối tiếp nhận các thanh sát viên vũ khí. Ngoài ra, lực lượng Iraq thường xuyên đụng độ với các máy bay của Mỹ và Anh trong khu vực cấm bay.
Năm 2002, Tổng thống George W. Bush (Bush con) đã bảo trợ cho một nghị quyết của LHQ kêu gọi Iraq cho phép các thanh sát viên vũ khí quay trở lại nước này. Các thanh sát viên của LHQ đã đến Iraq vào tháng 11 năm đó. Trong khi các nước thành viên Hội đồng Bảo an vẫn còn bất đồng về mức độ tuân thủ của Iraq với việc thanh sát thì Mỹ và Anh đã bắt đầu tập trung lực lượng ở biên giới Iraq. Vào ngày 17/3/2003, Tổng thống Bush (không có sự chấp thuận của LHQ) đã đưa ra một tối hậu thư yêu cầu Saddam Hussein từ chức và rời khỏi Iraq trong vòng 48 giờ, cũng như đe dọa tiến hành chiến tranh. Tổng thống Hussein từ chối và cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ hai, thường được gọi là Chiến tranh Iraq, nổ ra 3 ngày sau đó.
Vào ngày 20/3/2003, cuộc chiến tranh thứ hai giữa Iraq và liên minh do Mỹ dẫn đầu lại nổ ra, mục tiêu lần này của Mỹ là hạ bệ Tổng thống Saddam Hussein khỏi quyền lực với cái cớ tìm và phá hủy vũ khí giết người hàng loạt của Iraq. Nhà lãnh đạo Iraq bị một đơn vị quân đội Mỹ bắt vào ngày 13/12/2003 và bị hành quyết vào ngày 30/12/2006. Sau này, không có bất kỳ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào được tìm thấy tại Iraq. Mỹ đã không chính thức rút khỏi quốc gia Trung Đông này cho đến tận tháng 12/2011.
Di sản của Chiến tranh Vùng Vịnh
Chiến dịch Bão táp Sa mạc không chỉ quan trọng về quy mô mà còn về thời điểm. Cuộc chiến này nổ ra vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh, tình trạng căng thẳng quốc tế đã lắng xuống, khiến nhiều quốc gia phương Tây xem xét lại chi tiêu quân sự của họ.
Cũng có một mối lo ngại sâu sắc rằng thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh tạo cơ hội để thiết lập - theo lời Tổng thống George H. W. Bush trích dẫn của ông Winston Churchill - một “trật tự thế giới mới” và Chiến tranh Vùng Vịnh chính là tiền đề cho cách tiếp cận tương lai của cộng đồng quốc tế.
Đối với Tổng thống Bush và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, trật tự mới bao gồm sự không khoan nhượng đối với hành vi xâm lược quân sự và tăng cường sự gắn kết quốc tế, luật pháp quốc tế và các thể chế tự do, bao gồm cả LHQ. Khi làm như vậy, họ sẽ tìm cách thiết lập các phản ứng toàn diện và quyết định đối với các cuộc khủng hoảng quốc tế, về mặt ngoại giao và quân sự.
Quyết định dừng tấn công Baghdad sau 42 ngày dựa trên các mục tiêu của “trật tự thế giới mới” của các thể chế tự do cũng như tuân thủ điều lệ của LHQ. Thủ tướng Anh John Major đã viết trong hồi ký của mình: “Nếu các quốc gia đã tham chiến trên cơ sở luật pháp quốc tế mà lại tự mình phá vỡ luật đó thì tương lai của trật tự thế giới sẽ có gì ngoài hỗn loạn?”.
12 năm sau, phần lớn nỗ lực nhằm tạo ra một cách tiếp cận quốc tế gắn kết và tôn trọng luật pháp cùng thể chế quốc tế, đã bị cuộc chiến năm 2003 ở Iraq làm sụp đổ. Đặc biệt, việc tiến hành các chiến dịch quân sự mà không nhận được sự hỗ trợ của khu vực và LHQ đã gây tranh cãi lớn, đồng thời gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của Mỹ và Anh.
Trong bối cảnh cộng đồng quốc tế tiếp tục đối mặt với một mối đe dọa mới tại khu vực Trung Đông là tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS), cơ hội để hàn gắn vết thương Chiến tranh Iraq năm 2003 đã có. Mối đe dọa chung do IS gây ra một lần nữa đem đến cơ hội cho cộng đồng quốc tế đoàn kết và tạo ra một trật tự thế giới mới, dựa trên các liên minh hợp pháp, hoạt động thông qua LHQ và với các đối tác khu vực.