Đại tá Khưu Ngọc Bảy (ảnh), nguyên Trung đoàn trưởng Đoàn 962 anh hùng thường được mọi người biết đến với tư cách là Phó Chủ tịch Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển, nhưng ít ai biết ông còn là một nhà thơ. Ông đã ra mắt độc giả nhiều tập thơ, trong đó tập thơ thứ tư với chủ đề “Thơ và người lính” có trường ca “Bến cảng giữa rừng” viết về những người lính đoàn tàu không số, về những người lính của Trung đoàn 962 và tấm lòng kiên trung của quân dân Đất mũi Cà Mau đã bí mật tiếp nhận, vận chuyển vũ khí cho chiến trường Nam bộ.
Đại tá Khưu Ngọc Bảy kể: Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, bốn con tàu mang ký hiệu 43, 56, 235, 165 của Lữ đoàn 125 được lệnh xuất phát, chở hàng vào Nam, trong đó có tàu 165 chở hàng về bến Vàm Lũng (Cà Mau). Tàu do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm cùng 17 cán bộ, thủ thủy trên tàu. Như những chuyến đi trước, tàu đi qua quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, xuôi về phía Nam theo dòng tàu buôn nước ngoài trên vùng biển hải phận quốc tế, lúc này tàu đã bị địch theo dõi. Đến vùng biển Cà Mau, tàu chuyển hướng vào bến. Khi còn cách cửa biển Bồ Đề 20 hải lý thì bị tàu địch bao vây.
Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm đã bình tĩnh, mưu trí cùng anh em quyết tâm vượt qua vòng phong tỏa của địch. Lúc này, thông tin giữa tàu và Sở chỉ huy và bến vẫn giữ liên lạc tốt. Mọi phương án đón tàu ở bến được chuẩn bị chu đáo, kể cả trong trường hợp xấu nhất, bến sẵn sàng “chia lửa” với tàu. Sau đó tình hình xấu đi, máy bay địch lượn nhiều, chúng báo động và tàu 165 đã bị rất đông tàu giặc bao vây giữa biển khơi. Trên bờ, lúc này ai cũng ngóng ra biển, ai cũng căng mắt lo âu... Nhưng cuộc chiến không cân sức, biết không thể thoát được, thuyền trưởng xin lệnh cấp trên cho hủy tàu không để rơi vào tay giặc. Đó là vào đêm 29/2, rạng ngày 1/3/1968. Chừng hơn một giờ sáng, phía ngoài khơi nhiều ánh lửa và đường đạn vạch lên trời...
Những tia chớp và một cột lửa lớn vọt lên kèm theo tiếng nổ lớn giữa biển khơi xa... “Chúng tôi được lệnh bám biển, trên bến vẫn hy vọng và chờ đợi có anh em rời tàu sớm còn sống, nhưng ngày hôm sau rồi hôm sau nữa, anh em chia nhau đi dọc theo bờ biển tìm đón hoặc thi thể anh em thủy thủ hoặc một di tích nào đó trôi dạt vào bờ, nhưng nhiều ngày trôi qua vẫn không chút tăm hơi. Con tàu 165, thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và 17 thủy thủ đoàn đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại, các anh đã hóa thân vào lòng biển mênh mông. Chúng tôi ngồi trên bãi biển và chỉ biết khóc. Và tôi đã viết trường ca “Bến cảng giữa rừng” xuất phát từ sự kiện này. “Nước triều lên Vàm Lũng lại dâng đầy/ Có con tàu chiều nay vĩnh viễn không về bến/ Anh ngồi khóc và anh lần tay nhẩm/ Chép vào lòng tên những bạn bè anh…”. Trường ca gồm 3 chương nói về bối cảnh bến Cà Mau nhận nhiệm vụ trực tiếp nhận vũ khí; chương đầu tiên về con đường chuyển hàng đi tới những chiến trường và chương cuối viết về tình cảm của quân dân bến Cà Mau với những anh hùng đã hy sinh trên chiếc tàu 165”.
Nhà thơ tâm sự: “Những câu thơ cũng chính là những cảm xúc của chúng tôi trước sự kiện này: Anh đắp lên giữa rừng những nấm mộ vô danh? Trên bùn nhão viết tên đồng đội/ Trong vốc nước mặn tê đầu lưỡi/ Ngỡ có máu bạn bè chảy về tận nơi đây"…Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ viết: “Nếu anh còn qua hết cuộc chiến tranh này/ Anh sẽ gói phù sa mang về khắp trong Nam, ngoài Bắc/ Những người ngã xuống vì Tổ quốc/ Chẳng thể nào vô danh”.
Theo đánh giá của một số bạn văn thân thiết, thơ của Khưu Ngọc Bảy lạ về thi pháp, đẹp và giản dị về ngôn từ, rất giàu cảm xúc và hình tượng về con đường vận tải vũ khí trên biển, đậm đà nhất là tình cảm gắn bó quân dân các bến bãi. Thơ của ông là những xúc cảm thật, xuất phát từ một cuộc đời từng trải và trái tim nồng nàn lòng yêu đất nước, quê hương. Riêng về trường ca “Bến cảng giữa rừng”, nhà thơ Nguyễn Bá nhận xét: “Trường ca cách mạng mang đậm chất sử thi vì nó được kết tập khí phách anh hùng và tình yêu dân tộc. Trên bản đồ Cà Mau mới, Vàm Lũng hầu như không còn, nhưng trong trái tim người Trung đoàn trưởng Trung đoàn 962 thì địa danh này là bến bãi của ý chí kiên cường, sáng ngời trí tuệ, vinh quang và anh hùng, là bến cảng của lòng quân dân Cà Mau thành đồng Tổ quốc. Trường ca “Bến cảng giữa rừng” và nhà thơ là máu thịt của nhau… cho người đọc cảm thụ được những bến bãi sâu thẳm trong tâm hồn người lính thủy”.
Thật vậy, những con tàu vượt trùng khơi vào Nam ra Bắc từng một thời như là nhịp thở của cuộc đời nhà thơ chiến sĩ - Đại tá Khưu Ngọc Bảy. Vì thế, không chỉ trường ca “Bến cảng giữa rừng”, mà hầu hết thơ của ông đều mang hơi thở anh hùng ca và tình ca của người lính biển. Và có lẽ, ở Nam bộ, Khưu Ngọc Bảy là người duy nhất kể chuyện bằng thơ về Con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển.
Bài và ảnh: Trần Khánh Linh