Một góc thành phố Việt Trì (cũ), Phú Thọ. Ảnh: TTXVN
Nhiều kết quả nổi bật trong thực hiện Nghị quyết 57
Với cách làm bài bản, đồng bộ, quyết liệt, thời gian qua, tỉnh Phú Thọ đạt được nhiều kết quả nổi bật trong thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW.
Theo ông Nguyễn Minh Tường, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Phú Thọ, những năm gần đây, tỉnh đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng số, đến nay, toàn tỉnh có hơn 10.200 trạm BTS phủ sóng 3G, 4G đạt 100%, đồng thời phát sóng thương mại 170 trạm 5G. Nâng tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh đạt 89%, internet băng rộng di động và cố định được phủ rộng toàn tỉnh. Trung tâm dữ liệu tỉnh được trang bị hiện đại, bảo mật cao, đảm bảo an toàn thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước.
100% cơ quan từ cấp tỉnh đến xã có máy tính, mạng LAN, internet băng thông rộng; hệ thống hội nghị trực tuyến, nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu vận hành ổn định. Phú Thọ chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu số đồng bộ, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội… Kho dữ liệu điện tử về thủ tục hành chính và dữ liệu cá nhân giúp người dân, doanh nghiệp chủ động quản lý, lưu trữ, giao dịch trực tuyến thuận lợi.
Tỉnh ban hành nhiều cơ chế, chính sách về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút nhân tài trong và ngoài nước, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hiện Trung tâm dữ liệu tỉnh có 68 cán bộ kỹ thuật trình độ cao, trong đó một số cán bộ đạt chứng chỉ quốc tế về an toàn thông tin. Các sở, ngành, địa phương đều bố trí cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin, đồng thời đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Nhờ đầu tư mạnh mẽ hạ tầng số và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tỉnh thực hiện thành công các mục tiêu về chuyển đổi số, nhất là trong hệ thống chính trị. Đến nay, hệ thống gửi nhận văn bản điện tử được triển khai tại 16 sở, ban, ngành, 148 xã, phường với 28.226 tài khoản người dùng. Tính từ sau ngày sáp nhập, 100% cơ quan đơn vi thực hiện gửi nhận văn bản điện tử có ký số (trừ văn bản mật theo quy định), có 161.562 văn bản điện tử đến; 99.986 văn bản điện tử đi được phát hành trên Trục liên thông văn bản Quốc gia.
Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính được triển khai đồng bộ, thống nhất trên địa bàn tỉnh. Hệ thống cung cấp 2.153 thủ tục hành chính, trong đó, dịch vụ công trực tuyến toàn trình 969 thủ tục; dịch vụ công trực tuyến một phần 1.184 thủ tục. Tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến đạt 88,01%, xếp 9/34 tỉnh, thành phố. Đặc biệt, hệ thống hội nghị truyền hình được triển khai thông suốt từ cấp tỉnh đến cấp xã và thường xuyên được sử dụng.
Nhiều ngành, lĩnh vực trên địa bàn tỉnh triển khai hiệu quả ứng dụng công nghệ số như, Công an tỉnh cấp hơn 2,5 triệu tài khoản định danh điện tử mức 2; ngành Tư pháp hoàn thành số hóa sổ hộ tịch; ngành Y tế triển khai bệnh án điện tử, ứng dụng AI trong chẩn đoán đột quỵ; ngành Giáo dục hình thành hệ sinh thái giáo dục thông minh; ngành Nông nghiệp xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, áp dụng mã QR trong kiểm dịch; ngành Du lịch phát triển cổng du lịch thông minh Myphutho.vn; ngành Thuế triển khai Etax Mobile và hóa đơn điện tử; ngành Nội vụ chi trả an sinh xã hội không dùng tiền mặt…
Những thành tựu này là tiền đề quan trọng để Phú Thọ tiếp tục bứt phá trong giai đoạn tới, hiện thực hóa mục tiêu trở thành địa phương đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần xây dựng kinh tế tri thức, xã hội số, chính quyền số và công dân số.
Động lực then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội
Theo UBND tỉnh Phú Thọ, mặc dù đạt được một số kết quả tích cực trong triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị song tỉnh đang đối mặt nhiều khó khăn, hạn chế. Hiện nay, một số lãnh đạo cấp xã, phường còn thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, dẫn đến tiến độ và hiệu quả triển khai chuyển đổi số chưa đạt kỳ vọng của Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Trong khi đó, phong trào “Bình dân học vụ số” được triển khai sâu rộng nhưng việc lan tỏa tinh thần đổi mới tư duy và hành động vẫn chưa đồng đều giữa các cấp, ngành.
Một số quy định phục vụ hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa phù hợp thực tiễn. Cụ thể, việc xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ, cơ chế giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu hay các chính sách tài chính, ưu đãi cho doanh nghiệp khoa học công nghệ còn bất cập. Điều này làm hạn chế khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chưa tạo động lực đủ mạnh thu hút doanh nghiệp đầu tư.
Mặc dù hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin đã được đầu tư đáng kể song vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế do tốc độ phát triển công nghệ nhanh và nguồn lực địa phương có hạn. Một số hệ thống thông tin triển khai thiếu đồng bộ, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu từ Trung ương đến địa phương gặp khó khăn.
Nguồn nhân lực chuyên môn về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trên địa bàn còn hạn chế, thiếu hụt, nhiều đơn vị, cán bộ phụ trách công nghệ thông tin chủ yếu kiêm nhiệm, thiếu điều kiện tập trung chuyên sâu, ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng thực hiện nhiệm vụ.
Đáng chú ý, tỉnh chưa ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thu hút nhân lực chất lượng cao, chuyên gia, nhà khoa học tham gia hỗ trợ. Dù tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến đạt hơn 88%, nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước nhưng phần lớn hồ sơ vẫn được cán bộ trực tiếp hỗ trợ thao tác thay cho người dân và doanh nghiệp.
Công tác huy động nguồn lực xã hội hóa cho khoa học, công nghệ mới ở mức khởi đầu, chưa lan tỏa rộng; hợp tác quốc tế chưa hiệu quả do cơ chế, chính sách hợp tác chuyên sâu với doanh nghiệp nước ngoài còn thiếu...
Theo ông Trần Duy Đông, Chủ tịch UBND tỉnh, để khắc phục khó khăn, tỉnh tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới.
Trước mắt, tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng về nội dung Nghị quyết 57-NQ/TW, coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt tạo chuyển biến về tư duy và hành động. Trách nhiệm người đứng đầu cơ quan nhà nước được gắn chặt với kết quả triển khai nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số. Phong trào “Bình dân học vụ số” và “học tập số” sẽ được cụ thể hóa bằng các chương trình thiết thực, lan tỏa rộng khắp, nâng cao kiến thức số cho cán bộ, công chức và nhân dân.
Tỉnh nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ chuyển đổi số, gắn với đánh giá cán bộ, công chức, viên chức và người đứng đầu, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, có tính khích lệ. Phú Thọ sẽ tham mưu ban hành các Nghị quyết của HĐND tỉnh liên quan đến đầu tư hạ tầng số, quy định mức chi cho nhiệm vụ khoa học công nghệ, hỗ trợ đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ.
Địa phương xây dựng, rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D), thúc đẩy kinh tế số, xã hội số, đồng thời tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước tạo tính chủ động, linh hoạt. Tỉnh tăng cường đầu tư hạ tầng số tại cấp xã, phường; mở rộng phủ sóng 5G; tăng cường năng lực phòng thí nghiệm cho sản phẩm chủ lực của tỉnh.
Về nhân lực, tỉnh kiến nghị đưa Trường Đại học Hùng Vương vào quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo định hướng nghiên cứu, đồng thời đề xuất xây dựng Phú Thọ thành trung tâm dữ liệu vùng. Tỉnh có cơ chế đặc thù thu hút và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao trong chuyển đổi số. Các khóa tập huấn, bồi dưỡng trực tuyến mở rộng sẽ được tổ chức thường xuyên cho cán bộ, công chức, viên chức.
Địa phương đẩy mạnh cấp căn cước, kích hoạt tài khoản định danh VNeID, làm sạch dữ liệu hộ tịch và đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Việc sử dụng giấy tờ điện tử dần thay thế giấy tờ truyền thống, hướng tới mô hình chính quyền số hiệu quả, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.
Với những giải pháp đưa ra, tỉnh Phú Thọ đề ra mục tiêu hết năm 2025, tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến đạt trên 90%, đồng thời giảm ít nhất 30% thời gian và chi phí thủ tục hành chính. Các cơ sở dữ liệu về y tế, giáo dục, du lịch, lao động, đất đai, quy hoạch… sẽ được hoàn thiện và công bố công khai trên môi trường mạng.