Nhiều thay đổi về chính sách ưu đãi với người có công
Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 được Quốc hội ban hành ngày 9/12/2020 về ưu đãi về người có công chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2021, thay thế cho Pháp lệnh năm 2005.
Theo Pháp lệnh này, thương binh, bệnh binh và người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh được Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang thiết bị, được vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, miễn hoặc giảm thuế đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đây là một chế độ mới mà trước đây chưa quy định cho các đối tượng người có công này.
Với Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, mức trợ cấp hằng tháng cũng được tăng từ ngày 1/7/2021, cụ thể là bằng 3 lần mức chuẩn (tức 4.872.000 đồng/tháng), thay vì 1 lần mức chuẩn như quy định trước đây.
Riêng với vợ hoặc chồng liệt sĩ đã tái giá nhưng vẫn nuôi con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc cha, mẹ đẻ của liệt sĩ khi còn sống, sẽ được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng và được hỗ trợ về Bảo hiểm y tế.
Tăng trợ cấp cho nhiều đối tượng
Theo Nghị định 20 của Chính phủ, nhiều khoản trợ cấp cho các đối tượng hưởng bảo trợ xã hội được điều chỉnh tăng vào thời điểm 1/7/2021. Cụ thể gồm:
- Trẻ mồ côi dưới 4 tuổi; trẻ nhiễm HIV thuộc hộ nghèo được hưởng trợ cấp 900.000 đồng/tháng, thay cho mức 675.000 đồng/tháng.
- Người từ đủ 60 đến đủ 80 tuổi thuộc hộ nghèo, không có người phụng dưỡng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng/tháng, thay cho mức 405.000 đồng/tháng.
- Người khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp 720.000 đồng/tháng, thay cho mức 540.000 đồng/tháng; người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng/tháng, thay cho mức 405.000 đồng/tháng…
- Trợ cấp mai táng người chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc các lý do bất khả kháng khác tối thiểu là 18 triệu đồng (trước đây chỉ là 5,4 triệu đồng), với trường hợp gia đình tổ chức mai táng…
- Hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác cho hộ dân phải di dời khẩn cấp tối thiểu là 30 triệu đồng/hộ, trước đây tối đa là 20 triệu đồng/hộ…
Áp dụng một số chính sách mới về bảo hiểm y tế
Nhiều văn bản có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 cũng có một số quy định liên quan đến bảo hiểm y tế. Cụ thể như:
- Luật Cư trú 2020 thay đổi khái niệm “hộ gia đình tham gia BHYT”. Theo đó, hộ gia đình tham gia BHYT là những người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú tại một chỗ ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về cư trú (trước đây là toàn bộ những người có tên trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú).
- Nghị định 20 của Chính phủ bổ sung một số trường hợp được cấp thẻ BHYT miễn phí, như: Người đơn thân nghèo đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc con từ 16 đến 22 tuổi nhưng đang ăn học; Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng…
- Thông tư 04 của Bộ Y tế quy định việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT theo định suất. - Pháp lệnh Ưu đãi người có công năm 2020 quy định vợ hoặc chồng liệt sĩ đã tái giá nhưng vẫn nuôi con liệt sĩ hoặc chăm sóc cha, mẹ đẻ của liệt sĩ cũng được hỗ trợ về BHYT (trong khi trước đây không được)…
Thu hồi, không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú
Ngày 1/7/2021, Luật Cư trú mới có hiệu lực, áp dụng 2 chính sách mới liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú - những cuốn sổ mà hơn 70 năm nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi hộ dân.
Trước tiên là vấn đề thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú: Theo Luật Cư trú, khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi Sổ đã cấp. Các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú và bị thu hồi sổ được Bộ Công an hướng dẫn tại Thông tư 55 (cũng có hiệu lực từ 1/7/2021) như sau:
- Thủ tục đăng ký thường trú.
- Thủ tục điều chỉnh thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.
- Thủ tục tách hộ.
- Thủ tục xóa đăng ký thường trú.
- Thủ tục đăng ký tạm trú.
- Thủ tục gia hạn tạm trú.
- Thủ tục xóa đăng ký tạm trú. Như vậy, không phải tất cả Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đều bị thu hồi, mà chỉ khi người dân đi làm các thủ tục nêu trên thì mới bị thu hồi. Những sổ khác, không thuộc trường hợp bị thu hồi, vẫn sử dụng bình thường.
Ngoài việc thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú trong nhiều trường hợp nêu trên, ngày 1/7/2021 cũng là thời điểm bắt đầu không cấp mới Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú. Theo đó, khi người dân đi làm thủ tục đăng ký thường trú sẽ không còn được cấp Sổ hộ khẩu, làm thủ tục đăng ký tạm trú sẽ không còn được cấp Sổ tạm trú.
Đồng thời, khi các cuốn sổ này bị mất, bị hư hỏng, rách nát… cũng không còn được cấp lại. Mọi thông tin về cư trú của người dân sẽ được cập nhật và lưu tại Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Như vậy, thay vì một cuốn sổ bằng giấy, từ ngày 1/7/2021, việc quản lý dân cư sẽ được quản lý bằng dữ liệu điện tử. Cần lưu ý rằng, ngày 1/7/2021 là thời điểm không cấp mới Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, không phải là thời điểm bãi bỏ hoàn toàn hai loại giấy tờ này. Đến ngày 1/1/2023, Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú mới chính thức bị xóa bỏ hoàn toàn.
Nhiều thay đổi lớn về đăng ký thường trú, tạm trú
Không chỉ quyết định số phận của Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, Luật Cư trú có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 còn thay đổi rất nhiều vấn đề về đăng ký thường trú, tạm trú, liên quan trực tiếp đến đời sống của mỗi người dân. Trước tiên, Luật này cho thấy điều kiện đăng ký thường trú ở 63 tỉnh, thành là như nhau, không phân biệt thành phố trực thuộc trung ương như trước đây.
Đáng chú ý, từ 1/7/2021, việc nhập hộ khẩu vào các thành phố lớn cũng có phần “cởi mở” hơn so với trước đây, bởi đã xóa bỏ điều kiện “thời gian tạm trú”, chỉ yêu cầu người dân có chỗ ở hợp pháp là có thể làm thủ tục đăng ký thường trú.
Trong thủ tục đăng ký tạm trú, Luật cũng không còn yêu cầu người thuê nhà phải có ý kiến đồng ý của chủ nhà. Đáng chú ý, Luật đã bổ sung quy định về những nơi không được đăng ký thường trú, tạm trú, như: Nhà nằm trên đất lấn chiếm; Nhà đã có quyết định thu hồi đất; Nhà đã có quyết định phá dỡ…
Do đó, từ ngày 1/7/2021, người dân cũng cần lưu ý không thuê nhà, mua nhà ở các địa điểm này, vì không thể làm được thủ tục đăng ký tạm trú, thường trú. Ngoài ra, Luật cũng quy định thêm nhiều trường hợp bị xóa đăng ký thường trú, điển hình nhất là 2 trường hợp: Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên, mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài; Bán nhà mà không được chủ nhà mới đồng ý cho giữ lại đăng ký thường trú.
Thủ tục làm căn cước công dân có nhiều điểm mới
Ngày 1/7/2021 cũng là thời điểm có hiệu lực của một số văn bản liên quan đến Căn cước công dân (CCCD) gắn chip, cụ thể là Thông tư 59 và Thông tư 60 của Bộ Công an. Với hai Thông tư này, Bộ Công an đã có bước tiến mới trong quy trình, thủ tục cấp CCCD gắn chip - loại giấy tờ tùy thân quan trọng nhất của mỗi công dân.
Thứ nhất, Bộ Công an yêu cầu thu hồi mọi Chứng minh nhân cũ (9 số, 12 số) khi người dân làm thủ tục đổi sang CCCD gắn chip. Trong khi trước đây, chỉ thu hồi với Chứng minh nhân dân bị hỏng, bong tróc, không rõ nét, còn các trường hợp khác thì chỉ bị cắt góc và được trả lại cho người dân.
Thứ hai, thời gian tối đa để cấp CCCD cho người dân là 8 ngày làm việc (trong đó có 2 ngày để chuyển dữ liệu điện tử lên Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư; 3 - 4 ngày để Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính xử lý, phê duyệt, in thẻ và 2 ngày chuyển phát về nơi người dân làm thủ tục).
Thứ ba, mã QR Code trên thẻ CCCD chứa thông tin về số Chứng minh nhân dân cũ của người dân. Do đó, người dân không cần phải xin Giấy xác nhận số chứng minh nhân dân và cung cấp khi làm các thủ tục, giao dịch sử dụng số Chứng minh nhân dân cũ như trước đây, trừ trường hợp mã QR Code không có thông tin về số Chứng minh nhân dân.
Thứ tư, người dân chính thức được làm CCCD ở nơi tạm trú từ ngày 1/7/2021, thay vì phải về nơi thường trú như trước đây. Thứ năm, khi đi làm thủ tục cấp CCCD gắn chip, người dân không còn phải điền thông tin trên tờ khai CCCD như trước, mà cán bộ làm thủ tục sẽ tìm kiếm thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, sau đó in phiếu cho người dân kiểm tra, ký và ghi rõ họ tên…