Môn học này được xây dựng và phát triển trên nền tảng của các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học và Khoa học trái đất ... Đây là môn học nền tảng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh cấp Trung học cơ sở.
Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Khoa học tự nhiên là môn học bắt buộc ở bậc Trung học cơ sở, được phát triển từ môn Khoa học ở lớp 4,5 (cấp Tiểu học). Ảnh: Quý Trung/TTXVN |
Tiếp cận xu hướng giáo dục tiên tiến Tiến sĩ Trương Xuân Cảnh, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đánh giá: Dự thảo chương trình môn Khoa học tự nhiên có một số ưu điểm nổi trội so với chương trình hiện hành, đã cụ thể hoá được mục tiêu và yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
Chương trình được xây dựng theo hướng tiếp cận hình thành và phát triển năng lực người học, đảm bảo cho học sinh vừa tiếp thu được tri thức khoa học, áp dụng tri thức đó vào thực tiễn, tiếp thu các xu hướng giáo dục tiên tiến trong khu vực và quốc tế.
Chương trình tích hợp nội dung chính của môn Vật lý, Hóa học, Sinh học theo logic dựa trên nguyên lý chung về tính cấu trúc, sự đa dạng, tương tác, tính hệ thống cùng sự vận động và biến đổi, tức là có tính tích hợp nội dung, nguyên lý vận động của vật chất trong tự nhiên. Đồng thời, dự thảo chương trình chú trọng đến bản chất vận động của thế giới tự nhiên, quan tâm đến rèn luyện kĩ năng, phát triển năng lực của người học, giản lược được những nội dung nặng về kiến thức.
Bên cạnh đó, các chủ đề được sắp xếp chủ yếu theo logic tuyến tính, đồng thời có thêm một số chủ đề liên môn, tích hợp nhằm hình thành các nguyên lí, quy luật chung của thế giới tự nhiên.
Môn Khoa học tự nhiên chú trọng thực hành, thí nghiệm, hoạt động trải nghiệm. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển năng lực nhận thức kiến thức khoa học, năng lực tìm tòi, khám phá và vận dụng kiến thức khoa học vào thực tiễn.
Chương trình dự thảo cũng đã đáp ứng được yêu cầu phân luồng học sinh sau cấp Trung học cơ sở, chuẩn bị hành trang tri thức cho học sinh theo đuổi tiếp con đường học thuật hoặc rẽ nhánh học nghề phù hợp với năng lực bản thân.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Trương Xuân Cảnh, khi biên soạn nội dung các chủ đề khoa học cần cố gắng để có sự hòa quyện một cách tự nhiên. Bởi việc tích hợp trong môn Khoa học tự nhiên mang tính tổng thể, hệ thống nhưng lại mất đi tính phát triển liên tục. Do đó, cần quan tâm đến tính trọn vẹn của chủ đề khoa học trong chương trình.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mai Văn Hưng, Chủ nhiệm bộ môn Khoa học tự nhiên, Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: “Học để làm gì” là câu hỏi có rất nhiều đáp án, trong đó “học để thích nghi với môi trường sống” là một đáp án rất quan trọng. Muốn thích nghi, con người cần giải quyết được những vấn đề do môi trường sống đặt ra, trong đó có môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, các vấn đề của môi trường tự nhiên không thể được giải quyết triệt để, thấu đáo bằng kiến thức của từng môn học riêng rẽ. Nếu môn Khoa học tự nhiên bao gồm các kiến thức khoa học tích hợp được triển khai thành công sẽ ưu việt hơn hẳn các đơn môn trong việc giải quyết vấn đề “học để thích nghi”.
Thay đổi phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá Theo Tiến sĩ Trương Xuân Cảnh, để thực hiện chương trình môn Khoa học tự nhiên, cần đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường phối hợp hoạt động học tập cá nhân với học tập hợp tác nhóm nhỏ. Giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh thói quen và năng lực tự học, phát huy tiềm năng, kiến thức, kỹ năng đã tích luỹ được.
Nhà trường cần tăng cường các giờ học thực hành thí nghiệm, tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong môi trường tự nhiên, tham quan các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ, nhà máy sản xuất có áp dụng kiến thức nội dung bài học, tăng cường các hoạt động ứng dụng kiến thức môn học vào thực tiễn.
Tiến sĩ Trương Xuân Cảnh nhấn mạnh: Việc kiểm tra đánh giá cũng cần đổi mới, gắn liền với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó, chú trọng đến đánh giá quá trình, đánh giá kĩ năng và kết hợp nhiều biện pháp đánh giá khác nhau; bảo đảm đánh giá toàn diện nội dung, năng lực chung, năng lực đặc thù môn học, phẩm chất của người học. Vấn đề tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng của học sinh cần được chú ý và xem đó là biện pháp rèn luyện năng lực tự học, năng lực tư duy phê phán, phẩm chất chăm học, vượt khó, tự chủ, tự tin của học sinh.