Việt Nam đưa giải pháp giúp Lào ngăn chặn dịch tái bùng phát tại tỉnh Champasak

Để tăng cường an toàn cho tỉnh Champasak (Lào) trước và sau khi mở cửa trở lại, Đoàn chuyên gia y tế Việt Nam đã đưa ra các giải pháp để kịp thời đối phó với đại dịch COVID-19.

Chú thích ảnh
Đoàn chuyên gia y tế Việt Nam làm việc với Ban chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 của tỉnh Champasak. Ảnh: BYT

Nhiều nguy cơ dễ tái bùng phát dịch COVID-19

Sau quá trình khảo sát thực tiễn và hỗ trợ trực tiếp cùng các đồng nghiệp Lào, Đoàn chuyên gia của Bộ Y tế Việt Nam đã đánh giá cao công tác phòng chống dịch của tỉnh Champasak (Lào). Cụ thể, toàn tỉnh đã huy động được sự vào cuộc đồng bộ của hệ thống chính trị; công tác chỉ đạo điều hành đồng bộ, xuyên suốt; phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị, bảo đảm lồng ghép chặt chẽ và nghiêm ngặt trong quản lý điều trị ca bệnh COVID-19.

Tuy nhiên, theo Đoàn chuyên gia của Bộ Y tế Việt Nam, tỉnh Champasak vẫn có nguy cơ tái bùng phát dịch COVID-19.

Theo TS Vương Ánh Dương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Trưởng đoàn chuyên gia y tế Việt Nam, hiện có 8 nguyên nhân khiến dịch có thể tái bùng phát ở tỉnh Champasak.

Thứ nhất là nguy cơ nhập khẩu qua biên giới. Hiện tỉnh Champasak có 02 cửa khẩu quốc tế có lượng người nhập cảnh đông (giáp Campuchia, giáp Thái Lan), trong khi đó, chỉ xét nghiệm 1 lần với những người nhập cảnh (cụ thể, với những người âm tính thì chỉ thực hiện 1 lần xét nghiệm, khả năng bỏ lọt khá cao).

Thứ hai, nguy cơ xâm nhập từ các địa phương có dịch khác của Lào, trong đó, dịch tễ ca bệnh cộng đồng đầu tiên (ca bệnh số 101) ghi nhận tại tỉnh có nguồn lây từ ca bệnh 59 tại Viêng Chăn. Thời gian ca bệnh về tỉnh cùng lúc với Tết Lào là thời gian có lễ hội đã tạo điều kiện cho dịch lan rộng trên địa bàn.

Thứ ba, nguy cơ dịch có thể xảy ra dịch từ các ca bệnh cộng đồng chưa truy vết, lấy mẫu và cách ly đầy đủ. Theo đó, các ca bệnh tiếp xúc gần đã kịp lây cho người tiếp xúc gần là gia đình họ, trong khi số lượng ca truy vết và lấy mẫu xét nghiệm dựa trên người tự nguyện đến xét nghiệm. Khi có vụ dịch trong cộng đồng, thời gian trả kết quả xét nghiệm chậm do số lượng mẫu vượt quá khả năng xét nghiệm của phòng thí nghiệm. Do đó, các ca dương tính chưa được điều trị cách ly vẫn có thể làm lây lan trong cộng đồng.

Thứ tư, nguy cơ lây nhiễm trong khu cách ly do số lượng người cách ly đông và số ca dương tính ngày càng tăng từ người nhập cảnh. Đồng thời, do quy trình lấy mẫu và trả mẫu xét nghiệm thường chậm (ít nhất 1 ngày mới có kết quả xét nghiệm để trả) làm tăng nguy cơ lây lan trong khu cách ly trong khi chờ kết quả.

Thứ năm là nguy cơ lây nhiễm từ người cách ly có thời gian ủ bệnh dài hơn 7 ngày. Quy trình xét nghiệm hiện nay xét nghiệm ngày thứ 7 có thể không phát hiện được các trường hợp có thời gian ủ bệnh dài hơn 7 ngày. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay có nhiều biến chủng SARS-CoV-2 có thể có thời gian ủ bệnh dài hơn 14 ngày.

Thứ sáu là nguy cơ lây nhiễm chéo trong các cơ sở điều trị. Việc sàng lọc người cơ nguy cơ cao tại đây chưa triệt để tại các bệnh viện; việc thực hiện giãn cách trong bệnh viện chưa nghiêm; công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện một số nơi, một số kỹ thuật chưa phù hợp; chưa tiến hành xét nghiệm sàng lọc định kỳ cho cán bộ y tế khi có dịch trong cộng đồng để xác định ca bệnh chỉ điểm từ cộng đồng tới bệnh viện.

Thứ bảy là năng lực thu dung, quản lý điều trị tại địa phương này hiện chưa đủ đáp ứng khi dịch bùng phát và số lượng ca bệnh có tiến triển nặng tăng cao. Cụ thể là tình trạng nhân lực mỏng, mỗi ekip trực trong khu điều trị COVID-19 phải làm tới 1 tháng liên tục; năng lực chuyên môn về cấp cứu hồi sức ( số lượng máy thở còn hạn chế, ở cả 4 bệnh viện Đoàn tới chỉ có dưới 15 máy thở); thiếu phòng hồi sức cấp cứu tại các cơ sở điều trị COVID-19 cho bệnh nhân nhẹ; thiếu máy lọc máu hoặc có nhưng chưa biết sử dụng; danh mục thuốc chưa đủ chủng loại để điều trị hồi sức tích cực và bệnh nền…

Thứ tám là năng lực xét nghiệm, số lượng máy xét nghiệm tại địa phương này còn ít (có 2 máy xét nghiệm phục vụ cho tỉnh Champasak và 4 tỉnh xung quanh) và chỉ định xét nghiệm hạn chế, chưa chủ động phát hiện những ca bệnh chỉ điểm trong cộng đồng và trong bệnh viện.

Tăng cường truy vết, xét nghiệm

Trước những nguy cơ và thách thức hiện hữu, để tăng cường sự an toàn đối với tỉnh cho toàn tỉnh Champasak trước đại dịch COVID-19 trước và sau khi mở cửa trở lại, Đoàn chuyên gia y tế Việt Nam đã đề xuất các giải pháp để kịp thời đối phó với đại dịch COVID-19, bao gồm:

Về công tác giám sát dịch tễ, Đoàn đề xuất địa phương cần tăng cường công tác điều tra truy vết thông qua tăng cường nhân lực và tập huấn cho các cán bộ đáp ứng nhanh RRT các cấp tỉnh đến huyện xã; xây dựng kế hoạch đáp ứng với các tình huống dịch COVID-19 đặc biệt trong bối cảnh có nhiều biến chủng virus SARS-COV tăng khả năng lây lan và tăng nặng trên thế giới.

Đối với công tác xét nghiệm cần tăng cường năng lực và công suất xét nghiệm của tỉnh. Trang bị thêm máy chiết tách tự động để nâng cao công suất của máy xét nghiệm Realtime-PCR; Xét nghiệm sàng lọc định kỳ cho nhân viên phòng chống dịch, cán bộ y tế các cơ sở điều trị COVID-19 và các cơ sở y tế khác; Bổ sung chỉ định xét nghiệm cho bệnh nhân để đảm bảo tiêu chuẩn ra viện 2 lần xét nghiệm âm tính cách nhau 3 ngày; Mở rộng các đối tượng được xét nghiệm khi có ca bệnh trong cộng đồng…

Về công tác bảo đảm vệ sinh môi trường phòng ngừa lây nhiễm trong cộng đồng, địa phương này cần trang bị các thùng chứa rác có thành cứng và nắp đậy, túi chứa rác phù hợp theo qui định, khu lưu trữ rác thải tạm thời giêng biệt và khu xử lý rác thải lây nhiễm cần cách xa khu điều trị, khu dân cư; cải thiện môi trường các khu cách ly tập trung phòng chống lây nhiễm chéo; cập nhật kiến thức xử lý rác thải lây nhiễm từ bệnh nhân COVID-19…

Về công tác bảo đảm an toàn phòng chống COVID-19 trong các cơ sở khám chữa bệnh, Đoàn chuyên gia đề xuất địa phương cần xây dựng và áp dụng Bộ tiêu chuẩn Bệnh viện an toàn phòng chống COVID-19; thực hiện nghiêm công tác sàng lọc, phân luồng, cách ly trong bệnh viện; tăng cường tập huấn và bảo đảm thực hiện đúng các quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn.

Đoàn chuyên gia cũng cho rằng, tại các bệnh viện giao chức năng điều trị bệnh nhân vừa và nhẹ cần bổ sung máy X-Quang di động; mỗi phòng bệnh ít nhất 1 máy đo SPO2. Đồng thời trang bị một phòng cấp cứu, hồi sức cơ bản với máy monitor; bình ô xy, dụng cụ cấp cứu hồi sức tim mạch, hô hấp, nội khí quản và thuốc cấp cứu; bổ sung các thuốc điều trị hồi sức cấp cứu cơ bản như adrenaline, noradrenaline, thuốc điều trị các bệnh nền tăng huyết áp, đái tháo đường…

Tại các bệnh viện giao chức năng điều trị ca bệnh nặng, cấp cứu ngoại khoa cần tăng cường năng lực cho nhân viên y tế, trong đó tăng cường huấn luyện thực hiện các kỹ thuật điều trị chuyên sâu như đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm, theo dõi huyết động, lọc máu liên tục, ECMO; bổ sung bác sỹ chuyên khoa ngoại lồng ngực và tim mạch...

 

Phạm Hằng
Lào đánh giá cao những kinh nghiệm chống dịch mà Đoàn chuyên gia y tế Việt Nam chia sẻ
Lào đánh giá cao những kinh nghiệm chống dịch mà Đoàn chuyên gia y tế Việt Nam chia sẻ

Theo phóng viên TTXVN tại Viêng Chăn, để giúp Lào đối phó với đợt bùng phát dịch COVID-19 lần thứ 2, trong những ngày qua, Đoàn chuyên gia y tế của Việt Nam đã sát cánh cùng các y, bác sĩ và người dân Lào tại tỉnh Champasak, trung tâm kinh tế khu vực Nam Lào để hỗ trợ nước bạn nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh. Những chia sẻ, đóng góp và đề xuất của Đoàn được phía bạn đánh giá rất cao.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN