Nước sạch là nền tảng cốt lõi cho nông nghiệp bền vững.
Chìa khóa cho sức khỏe cộng đồng và nông nghiệp xanh
Tại Diễn đàn, nhiều chuyên gia cho rằng nước không chỉ là yếu tố thiết yếu trong sản xuất nông nghiệp, mà còn là nền tảng để phát triển nền nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phát biểu khai mạc, ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường cho biết: “Nước sạch và vệ sinh không chỉ là nhu cầu thiết yếu mà còn là nền tảng cho sức khỏe cộng đồng, chất lượng sống nông thôn và môi trường an toàn cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế nông nghiệp xanh - sạch - tuần hoàn, thích ứng biến đổi khí hậu”.
Ông Vũ Minh Việt cho biết thêm, Quyết định số 1978/QĐ-TTg ngày 24/11/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 với các chỉ tiêu đầy tham vọng: 100% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chuẩn (ít nhất 65% từ hệ thống cấp nước tập trung); tối thiểu 90% hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh; 100% trường học và trạm y tế nông thôn có công trình nước sạch, nhà vệ sinh đạt chuẩn...
Ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường phát biểu khai mạc.
Theo ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NN&MT) hiện nay, ngành nông nghiệp đang đối mặt với những thách thức lớn từ hạn hán, xâm nhập mặn và cạn kiệt nguồn nước ngầm. “Nếu không có giải pháp đồng bộ trong quản lý và sử dụng nước sạch, chúng ta sẽ không thể đảm bảo năng suất cũng như chất lượng nông sản bền vững trong tương lai”, ông Anh nhấn mạnh.
Phân tích sự chênh lệch giữa các vùng miền trong xã hội hóa cấp nước nông thôn, ông Lương Văn Anh cho biết: Miền Bắc có nền tảng công trình cấp nước tốt hơn do quá trình đầu tư sớm, quy mô tập trung và có hệ thống xử lý đầy đủ từ nhiều năm trước. Hệ thống cấp nước liên xã, có quy trình quản lý tương đối chặt chẽ và ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia vận hành và khai thác.
Tại nhiều vùng sản xuất trọng điểm như Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên, tình trạng khô hạn và thiếu nước sinh hoạt đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hàng triệu người dân. Không chỉ làm giảm năng suất lúa, cà phê hay hồ tiêu mà còn khiến nông dân buộc phải chuyển đổi cây trồng tự phát, gây xáo trộn hệ sinh thái nông nghiệp.
Ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ NN&MT) phát biểu tại diễn đàn.
Về thực trạng và nguồn lực, ông Giáp Mai Thùy, Phó Trưởng phòng Quản lý nước sạch nông thôn (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi) cho biết, công tác cấp nước sạch nông thôn đã góp phần quan trọng trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới (2021 - 2025).
“Đến nay, toàn quốc có khoảng 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, trong đó 60% hộ dân sử dụng nước từ các công trình cấp nước tập trung, còn 8% được cấp nước từ hệ thống cấp nước hộ gia đình. Tuy nhiên, nguồn lực đầu tư vẫn hạn chế. Chẳng hạn tổng vốn đầu tư giai đoạn 2020 - 2024 khoảng 13,4 nghìn tỷ đồng, trong khi nhu cầu giai đoạn 2021 - 2025 ước cần 29,2 nghìn tỷ đồng, thiếu gần 16 nghìn tỷ đồng”, ông Thùy cho biết thêm.
Miền Bắc hiện có hệ thống cấp nước quy mô, đầu tư sớm và đồng bộ hơn so với các vùng khác. Ảnh minh họa
Ông Thùy đề nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách và ưu tiên đầu tư công trình cấp nước tập trung quy mô lớn cho vùng khan hiếm nước, vùng hạn hán, vùng sâu, vùng xa và hải đảo; đồng thời rà soát, điều chỉnh giá nước và hướng dẫn hộ gia đình áp dụng giải pháp thu trữ nước an toàn.
Theo số liệu từ Bộ NN&MT, hiện nay mới chỉ có khoảng 52% dân cư nông thôn được tiếp cận với nước sạch đạt quy chuẩn. Con số này cho thấy khoảng cách lớn giữa đô thị và nông thôn trong việc tiếp cận hạ tầng nước sạch. Trong khi đó, nước sạch không chỉ là vấn đề sinh hoạt, mà còn gắn chặt với năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
Nhiều địa phương đã bước đầu hình thành các mô hình canh tác sử dụng nước tiết kiệm và tái sử dụng nguồn nước thải sau xử lý. Tại Long An, mô hình “nông nghiệp tuần hoàn nước” đã giúp nông dân giảm 20 - 30% lượng nước tưới, đồng thời tăng năng suất rau màu từ 10 - 15%. Tương tự, ở Ninh Thuận, các hệ thống tưới nhỏ giọt thông minh đang được áp dụng rộng rãi trong sản xuất nho, táo giúp giảm lãng phí nước và điện năng.
Quang cảnh diễn đàn.
Đầu tư cho nước sạch là đầu tư cho tương lai
Theo các chuyên gia, để đảm bảo nguồn nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt, Việt Nam cần coi đây là hạ tầng chiến lược, tương đương với giao thông và năng lượng. Hệ thống thủy lợi, hồ chứa và mạng lưới cấp nước nông thôn cần được đầu tư đồng bộ, gắn với quy hoạch sử dụng đất và phát triển vùng nguyên liệu.
“Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai chương trình quốc gia về phục hồi nguồn nước sạch nông thôn đến năm 2035. Mục tiêu là nâng tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chuẩn lên 80%, đồng thời tăng tỷ lệ sử dụng nước tái chế trong sản xuất nông nghiệp lên 15%”, ông Lương Văn Anh cho biết.
Một trong những điểm nhấn của chương trình là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý và phân bổ nguồn nước. Dữ liệu quan trắc được cập nhật theo thời gian thực sẽ giúp các địa phương chủ động ứng phó với biến động nguồn nước, đặc biệt trong mùa khô. Ngoài ra, các công trình cấp nước nông thôn mới sẽ được thiết kế theo hướng tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính.
Cả nước hiện có hơn 6.000 công trình cấp nước sạch nông thôn quy mô nhỏ, tập trung nhiều tại các tỉnh miền núi và vùng sâu, vùng xa. Ảnh minh họa
Tại An Giang, sau sáp nhập, Sở NN&MT quản lý toàn bộ nước sạch nông thôn với 238 công trình cấp nước tập trung phục vụ khoảng 665.160 hộ dân; Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT) quản lý 96 công trình, phục vụ hơn 155.000 hộ.
Tuy nhiên, theo ông Đặng Duy Quang, đại diện Trung tâm NS&VSMTNT An Giang, việc cung cấp nước sạch đến người dân còn gặp nhiều khó khăn như tổ chức bộ máy chưa ổn định, phối hợp giải phóng mặt bằng yếu, thủ tục khoan khai thác nước ngầm phức tạp, nhiều công trình xuống cấp chưa được nâng cấp, cán bộ cấp xã kiêm nhiệm nên hiệu quả còn thấp.
“Quyết định số 1348 của UBND tỉnh An Giang ban hành ngày 3/10/2025 chưa bổ sung thủ tục hành chính liên quan đến nước sạch nông thôn, dù trước đó Bộ đã công bố danh mục đủ điều kiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến”, ông Quang dẫn chứng. Ông cũng cho biết, đơn vị đang rà soát nhu cầu cấp nước vào quy hoạch phát triển, ứng dụng công nghệ thông minh nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng nguồn nước.
Hiện An Giang có 238 công trình cấp nước tập trung, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và vận hành, phục vụ khoảng 665.160 hộ dân theo ba mô hình quản lý khác nhau.
Để tăng cường cung cấp nước sạch cho người dân nông thông, các mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực nước sạch nông thôn đang được khuyến khích mở rộng. Thực tế cho thấy, khi doanh nghiệp tham gia cùng địa phương, chi phí vận hành giảm, hiệu quả quản lý tăng và người dân được sử dụng nước ổn định hơn. Tuy nhiên, để nhân rộng, cần có cơ chế giá nước hợp lý và minh bạch, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước - doanh nghiệp - người dân.
Bên cạnh đó, yếu tố môi trường phải được đặt ở trung tâm trong mọi chính sách nước sạch. Việc xử lý nước thải nông nghiệp, bảo vệ nguồn nước mặt, chống ô nhiễm từ chất thải chăn nuôi… cần được thực hiện song hành với quy hoạch cấp nước. Chỉ khi môi trường được bảo vệ, nước sạch mới thực sự bền vững.
Nước sạch là nền tảng giúp nông nghiệp phát triển theo hướng xanh và bền vững.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, vai trò của nước sạch đối với nông nghiệp càng trở nên sống còn. Một nền nông nghiệp xanh, thông minh và bền vững sẽ không thể hình thành nếu thiếu nền tảng là những dòng nước sạch - nơi bắt đầu của mọi sự sống.