Không còn là hiện tượng đơn lẻ
Phố Đội Cấn ngập sâu sau cơn mưa lớn. Ảnh: Lê Đông/TTXVN
Mỗi khi mưa lớn đổ xuống, hình ảnh đường phố ngập sâu, xe chết máy, người dân lội nước lại tái diễn, đặc biệt tại các khu đô thị cũ và mới ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Hai đợt mưa lớn cuối tháng 9 và đầu tháng 10 vừa qua đã đẩy Hà Nội vào tình trạng ngập úng trên diện rộng, có tới hơn 100 điểm ngập, thậm chí ngập kéo dài tới vài ngày khiến giao thông tê liệt, cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chưa kể là thiệt hại về tài sản từ việc ngập lụt này.
Tại TP Hồ Chí Minh, tình trạng ngập không chỉ xảy ra trong mùa mưa mà còn do triều cường. Các khu vực Bình Thạnh, TP Thủ Đức... thường xuyên ngập từ 20-50 cm ảnh hưởng nghiêm trọng đến giao thông và sinh hoạt người dân. Các dự án chống ngập như hệ thống cống ngầm, hồ điều tiết... chưa có hiệu quả như kỳ vọng.
Chuyên gia đô thị – KTS Ngô Viết Nam Sơn nhận xét, TP Hồ Chí Minh đã quá tập trung phát triển khu trung tâm với mật độ bê tông hóa cao, thiếu không gian xanh và mặt nước, dẫn đến khả năng thấm – thoát nước bị hạn chế nghiêm trọng. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở các thành phố miền Trung như Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn - nơi chịu ảnh hưởng kép từ mưa lớn và lũ từ thượng nguồn. Đặc biệt, biến đổi khí hậu khiến mưa ngày càng cực đoan, tần suất và lượng mưa vượt xa thiết kế ban đầu của hệ thống thoát nước.
Nguyên nhân được các chuyên gia chỉ rõ là do quy hoạch thiếu đồng bộ và cả vận hành kém hiệu quả. Theo PGS.TS Vũ Hoài Đức - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên nhân sâu xa của ngập lụt đô thị nằm ở việc quy hoạch thiếu tích hợp giữa cao độ nền, mạng lưới thoát nước và không gian trữ nước. Nhiều khu đô thị mới được nâng nền cao hơn khu cũ, dẫn đến tình trạng nước từ nơi cao đổ dồn về khu thấp, gây ngập cục bộ mà không có hướng thoát.
Đồng quan điểm, KTS Trần Tuấn Anh cũng cho rằng, nếu quy hoạch cao độ đất không được kết nối với mạng thoát nước đô thị thì ngập sẽ luôn quay trở lại cho dù có đầu tư bao nhiêu trạm bơm hay hồ điều tiết.
Theo thống kê, tại Hà Nội, nhiều hồ điều hòa tự nhiên đã bị san lấp để lấy đất xây dựng. Ước tính, trong vòng hơn 10 năm qua, diện tích mặt nước tự nhiên đã giảm trên 15%, làm mất đi khả năng điều tiết quan trọng. Cùng đó là hạ tầng cũ kỹ, quá tải và thiếu kết nối với nhiều hệ thống thoát nước được xây dựng từ thời Pháp thuộc, chỉ đáp ứng mưa với cường độ 100 mm/2 giờ. Trong khi đó, các trận mưa hiện nay thường đạt từ 200–300 mm chỉ trong vài giờ. Chưa kể hệ thống cống nhỏ, xuống cấp, rác thải bít kín miệng cống khiến nước thoát chậm, thậm chí "trào ngược"...
Thêm một nguyên nhân nữa được các chuyên gia "gọi tên" là biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng rủi ro. Theo đó, các chuyên gia quốc tế từ JICA (Nhật Bản) đã cảnh báo Việt Nam là quốc gia có nguy cơ cao trước biến đổi khí hậu. Do đó, Việt Nam cần xây dựng chiến lược thoát nước dài hạn và quản lý hạ tầng chống ngập theo lộ trình trung – dài hạn, không thể chỉ ứng phó mang tính đối phó. Đơn cử như triều cường kết hợp với mưa lớn khiến nhiều vùng thấp như TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ không thoát kịp nước ra sông, kênh bị dâng ngược. Đây là hiện tượng đang ngày càng phổ biến và đòi hỏi có giải pháp thích ứng.
Chống ngập phải là mạng lưới đa tầng
Triều cường trên đường Quốc Hương, phường An Khánh. Ảnh: TTXVN phát
Ông Đào Ngọc Nghiêm – nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch và Kiến trúc Hà Nội nhận định, muốn chống ngập hiệu quả, phải trả lại cho đô thị những hồ nước, ao đầm bị lấp đi. Không gian mặt nước phải được xem như cấu phần không thể thiếu trong quy hoạch đô thị hiện đại.
Theo chuyên gia này, nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình "đô thị sponge" (đô thị bọt biển) – tức là giữ nước tại chỗ qua mặt thấm, hồ sinh thái, mái xanh. Các khu đô thị mới tại Việt Nam cần áp dụng mô hình này ngay từ đầu, thay vì xây xong rồi mới tìm cách thoát nước - ông Nghiêm đề xuất.
Bên cạnh đó, kết hợp hạ tầng cứng và hạ tầng mềm cũng là giải pháp cần tính đến bởi không thể chỉ dựa vào trạm bơm, hồ ngầm mà thiếu đi kênh dẫn, bãi trữ nước và giải pháp tự nhiên. PGS.TS Hồ Long Phi, nguyên Viện trưởng Viện Nước và biến đổi khí hậu (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, hạ tầng chống ngập phải là mạng lưới đa tầng – từ mặt đường có độ dốc, đến cống ngầm, đến hồ chứa – tất cả phải hoạt động đồng bộ như một hệ sinh thái.
Giải quyết ngập nước đồng bộ hiện nay rất khó, bởi về giải pháp công trình, các đô thị mới chỉ đầu tư làm một phần nhỏ, manh mún, còn để đầu tư hoàn chỉnh cần thời gian, chưa kể kinh phí quá lớn lên đến cả hàng tỷ USD. Bên cạnh đó, tình trạng đô thị hóa nhanh ảnh hưởng không nhỏ đến việc thi công các công trình chống ngập. Trong khi đó, tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường, xuất hiện nhiều trận mưa lớn, cực đoan không tuân theo một quy luật nào.
PGS.TS Hồ Long Phi dề xuất, cần có sự vào cuộc đồng bộ với tầm nhìn ở cấp quốc gia, bởi riêng một địa phương thì khó có thể xoay xở nổi. Trong đó, cần khuyến khích và huy động thành phần tư nhân tham gia - lực lượng có tiềm lực tài chính mạnh và tư duy linh hoạt để cùng Nhà nước chia sẻ trách nhiệm và đồng hành tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề ngập nước.
“Về giải pháp căn cơ, trước mắt cần triển khai các công trình có khả năng thấm nước tốt, chẳng hạn như sử dụng vật liệu có độ hút nước cao, giúp nước thấm nhanh xuống nền đất; áp dụng bê tông nhựa rỗng tại các khu vực như vỉa hè, bãi đỗ xe... cũng sẽ góp phần giảm đáng kể tình trạng ngập úng. Bên cạnh đó, việc thu gom nước mưa qua các bể chứa ngầm bằng nhựa - như mô hình đã triển khai tại thành phố Thủ Đức - cũng là một giải pháp hiệu quả" - chuyên gia này hiến kế.