Quỳnh Sơn: Điểm đến du lịch xanh giữa lòng thung lũng Bắc Sơn

Từ thủ đô Hà Nội, vượt hơn 150km, du khách đã đến được Bắc Sơn (Lạng Sơn) vùng đất gắn liền với cuộc khởi nghĩa lịch sử năm 1940. Đứng trên đỉnh núi Nà Lay, cao hơn 600 mét so với mực nước biển, du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh thung lũng Bắc Sơn hiện ra trước mắt như một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, với những cánh đồng lúa trải dài, dòng suối uốn lượn như dải lụa bạc, bao quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp. Và giữa lòng thung lũng là làng Quỳnh Sơn thanh bình và nên thơ...

Chú thích ảnh
Hát then - Đàn tính là những tiết mục văn nghệ đặc sắc trong khai mạc Lễ hội du lịch mùa vàng Bắc Sơn năm 2025. Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN

Làng Quỳnh Sơn nằm giữa thung lũng Bắc Sơn xanh mướt, với những dãy núi đá vôi nối tiếp trùng điệp. Nơi đây không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ tuyệt đẹp, mà còn là một kho báu văn hóa sống động của người Tày, nơi lưu giữ ký ức, là “bảo tàng sống” của văn hóa Tày giữa miền sơn cước; với tiếng đàn tính ngân nga, điệu hát then da diết và những mái nhà sàn lợp ngói âm dương đã tồn tại qua hàng trăm năm.

Cũng giống như làng Lô Lô Chải tỉnh Tuyên Quang, làng Quỳnh Sơn đã chính thức được Tổ chức Du lịch Liên hợp quốc – UN Tourism vinh danh là “Làng du lịch tốt nhất thế giới năm 2025”. Với hơn 90% dân số là người Tày, Quỳnh Sơn vẫn giữ nguyên những giá trị văn hóa truyền thống: Từ tiếng nói, trang phục, lễ hội cho tới kiến trúc nhà ở. 

Hiện nay, làng Quỳnh Sơn có hơn 400 ngôi nhà sàn, hầu hết vẫn giữ nguyên kiến trúc truyền thống với khung gỗ nghiến, mái ngói âm dương và sàn gỗ bóng loáng. Tất cả đều quay cùng một hướng Nam, lưng tựa núi, mặt hướng đồng. Cụ Dương Đình Sùng - người già trong làng, cho biết: Người dân ở Quỳnh Sơn tin rằng, hướng nhà ở đây luôn đón ánh nắng sớm, tránh gió, đem lại sức khỏe, tài lộc và hòa thuận cho con cháu.

Không chỉ là điểm đến du lịch, Quỳnh Sơn còn là biểu tượng của sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Du khách đến Quỳnh Sơn vừa ngắm cảnh vừa được trải nghiệm, hòa mình vào cuộc sống dân dã: Nghỉ đêm trong những homestay nhà sàn truyền thống, nấu rượu ngô, giã bánh chưng đen, bắt cá suối, cùng xuống đồng trồng lúa, dệt vải; hay cùng người dân hát Then, múa Sli trong ánh lửa bập bùng và đặc biệt là thưởng thức những món ăn vùng cao đậm đà bản sắc. 

Cả không gian như một bức tranh yên ả, nơi thời gian dường như trôi chậm lại để mỗi người chạm vào nhịp sống văn hóa bản địa, thứ vốn liếng quý giá mà người dân nơi đây vẫn gìn giữ qua bao năm tháng. Qua đó, cảm nhận trọn vẹn hơi thở núi rừng Đông Bắc.

Điều 6 của Luật Di sản văn hoá năm 2024 quy định rõ về "Nguyên tắc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa".

Theo đó:

1. Mọi di sản văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam, có xuất xứ ở trong nước hoặc từ nước ngoài, thuộc các hình thức sở hữu đều được quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân.

3. Di sản văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài được bảo hộ theo luật pháp quốc tế và theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, hài hòa với quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cộng đồng, cá nhân; tôn trọng sự đa dạng văn hóa, sự đối thoại giữa các cộng đồng và tính đặc thù dân tộc, vùng, miền.

5. Ưu tiên bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có nguy cơ bị mai một, thất truyền, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, các dân tộc thiểu số rất ít người và những di sản văn hóa có giá trị toàn cộng đồng, xã hội.

6. Bảo đảm giữ gìn tối đa yếu tố gốc cấu thành di tích và tính nguyên gốc của di sản tư liệu; giá trị và hình thức thể hiện vốn có của di sản văn hóa phi vật thể.

7. Tôn trọng quyền của chủ thể di sản văn hóa phi vật thể và nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể trong việc quyết định các yếu tố cần được bảo vệ và hình thức, mức độ cần được phát huy của di sản văn hóa; xác định nguy cơ, tác động đe dọa sự tồn tại và lựa chọn giải pháp bảo vệ di sản văn hóa.

8. Lồng ghép việc bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng, địa phương.

Đặc biệt, vào mỗi dịp đầu xuân, cả làng lại nô nức tổ chức lễ hội Lồng Tồng - Lễ xuống đồng cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Đây cũng là dịp trai gái trong làng hát Then, hát Sli giao duyên, nên duyên vợ chồng giữa sắc đào hồng rực rỡ khắp núi đồi Bắc Sơn. Ở ngôi làng này còn 1 điều đặc biệt nữa, mà chỉ cần nghe thôi cũng khiến du khách tò mò: “Tất cả mọi người trong làng đều mang họ Dương, nhưng trai gái vẫn có thể nên duyên vợ chồng”. 

Những người cao tuổi trong làng cho biết, cùng là họ Dương, nhưng tách ra các chi khác nhau như: Dương Đình, Dương Doãn, Dương Công, nên có thể lấy nhau được. Quả thật, đây là một ngôi làng có một không hai, toàn họ Dương, nhưng vẫn giữ được nét riêng, sự hài hòa trong đời sống văn hóa và phong tục. Người dân nơi đây hiền hòa, gắn bó, cần cù lao động, vẫn giữ nếp sống truyền thống qua bao thế hệ. Đồng bào còn gìn giữ tri thức dân gian, bảo tồn kiến trúc cổ và môi trường tự nhiên. Mỗi ngôi nhà, mỗi con suối, mỗi lễ hội đều kể một câu chuyện về tình người, về sự gắn bó, về niềm tự hào dân tộc.

Quỳnh Sơn hôm nay không chỉ là nơi lưu giữ nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Tày, mà còn là minh chứng sống động cho mô hình du lịch cộng đồng bền vững. Quỳnh Sơn, một điểm đến xanh, bền vững, nơi du khách đến để ngắm nhìn và sống chậm, để cảm nhận, yêu hơn đất và người vùng cao.

Chú thích ảnh
Làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn, xã Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN

Theo ông Triệu Quang Huy, Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn, làng Quỳnh Sơn là bản tình ca của vùng núi đá vôi Lạng Sơn. Đến Quỳnh Sơn, du khách luôn được người dân đôn hậu chào đón với những nụ cười chân thành, minh chứng một điều rằng, “Việt Nam – đất nước của những ngôi làng biết kể chuyện”. Theo quy định pháp luật về bảo tồn di sản văn hóa, danh hiệu “Làng du lịch tốt nhất thế giới 2025” không chỉ là niềm tự hào, mà còn là lời khẳng định cho một hướng đi bền vững - nơi văn hóa, con người và thiên nhiên cùng tỏa sáng.

Theo UN Tourism, danh hiệu “Làng du lịch tốt nhất thế giới” là sự ghi nhận cho những điểm đến nông thôn có thành tích nổi bật trong bảo tồn thiên nhiên, phát triển bền vững và nâng cao sinh kế cộng đồng.

Vượt qua danh sách 52 làng du lịch tiêu biểu toàn cầu, được chọn lọc từ hơn 270 hồ sơ của 65 quốc gia thành viên, hai đại diện đến từ Việt Nam là Quỳnh Sơn của Lạng Sơn và Lô Lô Chải của Tuyên Quang đã tỏa sáng như hai viên ngọc quý, khẳng định vị thế du lịch cộng đồng Việt Nam trên bản đồ thế giới. Hai ngôi làng nhỏ bé ấy, giờ đây đã trở thành biểu tượng của du lịch bền vững Việt Nam, góp phần lan tỏa hình ảnh đất nước thân thiện, hiếu khách với bạn bè quốc tế.

Điều đặc biệt, hai ngôi làng của Việt Nam được chọn không chỉ nhờ cảnh sắc tươi đẹp mà còn bởi cách làm du lịch từ gốc, tỏa sáng từ chính văn hóa của cộng đồng dân tộc bản địa.

Từ năm 2022 đến nay, Việt Nam đã có 5 ngôi làng được UN Tourism vinh danh, gồm Thái Hải (Thái Nguyên), Tân Hóa (Quảng Trị), làng rau Trà Quế (Đà Nẵng), cùng hai cái tên mới được xướng tên là Lô Lô Chải và Quỳnh Sơn. Đó là hành trình chứng minh rằng, du lịch không chỉ là những chuyến đi, mà còn là sự kết nối giữa con người với con người, giữa văn hóa truyền thống và hơi thở hiện đại.

Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

V.T/Báo Tin tức và Dân tộc
Định hướng Mũi Né là điểm đến hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Định hướng Mũi Né là điểm đến hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Ngày 17/11, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng cho biết đã quyết định phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Quốc gia Mũi Né đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN