Tiện thì có tiện, tuy nhiên, không ít người phải giật mình khi nhìn danh mục liệt kê tới 17 loại phí mà có thể chủ thẻ ngân hàng phải trả nếu “đụng chạm” tới. Mong muốn tiếp cận xu hướng mới là tất yếu, nhưng quan trọng hơn cả vẫn phải là hài hòa lợi ích đôi bên.Hầu hết những người đang sử dụng các loại thẻ ngân hàng đều thừa nhận sự tiện lợi của nó trong thanh toán cả nội địa lẫn quốc tế. Một số trường hợp sử dụng tới 3 hay 4 loại thẻ của các ngân hàng khác nhau bởi một quan niệm đơn giản, làm miễn phí, mất gì đâu.
* Tiện thì có tiện...
Thị trường thẻ Việt Nam hình thành từ những năm 1990 nhưng phải sau năm 2002 sản sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa lần đầu tiên mới được phát hành tại Việt Nam. Vietcombank cũng chính là ngân hàng đầu tiên triển khai hệ thống giao dịch ATM dựa trên nền tảng kết nối trực tuyến toàn hệ thống. Nhờ đó, thị trường thẻ Việt Nam mới thực sự có bước đột phá quan trọng với việc nhiều ngân hàng chủ động và tích cực đầu tư hệ thống công nghệ phục vụ cho phát triển sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa. Người dân đã bắt đầu biết đến và làm quen với một phương tiện thanh toán tiện lợi, nhanh gọn, dễ phát hành, dễ sử dụng hoạt động dựa trên cơ sở tài khoản cá nhân.
Đến nay, thị trường thẻ Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh cả về hoạt động thanh toán và phát hành thẻ, số lượng các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày càng gia tăng với việc cho ra đời hàng loạt các sản phẩm thẻ hiện đại, nhiều tính năng, tiện ích đáp ứng đa dạng các yêu cầu của khách hàng. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ cơ bản như rút tiền mặt, chuyển khoản, các ngân hàng còn chủ động triển khai nhiều dịch vụ gia tăng trên hệ thống ATM như thanh toán hóa đơn điện, nước, viễn thông, bảo hiểm, thu nộp ngân sách nhà nước…, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng và giúp giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán.
Việc kết nối liên thông hệ thống ATM, hệ thống POS cũng được triển khai rất mạnh mẽ, mang lại nhiều tiện ích cho chủ thẻ, tiết kiệm chi phí đầu tư cho mỗi ngân hàng và cho toàn xã hội, giúp hạn chế lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế. Từ giữa năm 2008, mạng lưới ATM của toàn thị trường đã cơ bản được liên thông với sự liên kết của các công ty chuyển mạch thẻ Banknetvn - Smarlink - VNBC, giúp chủ thẻ của các ngân hàng thực hiện các giao dịch trên ATM của ngân hàng khác một cách dễ dàng, thuận lợi với mức phí hợp lý.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong thời gian qua, dịch vụ thanh toán thẻ qua internet cũng đã được các ngân hàng triển khai và được khách hàng đón nhận tích cực. Theo đó, khách hàng có thể sử dụng thẻ để mua hàng hóa, dịch vụ trên internet như mua vé máy bay, mua hàng hóa trên các website trực tuyến. Nhiều đơn vị thực hiện trả lương cho nhân viên qua tài khoản/thẻ đã giảm thiểu chi phí quản lý tiền mặt và nhân sự.
Đối với đơn vị chấp nhận thẻ cũng giảm được chi phí quản lý tiền mặt, thuận tiện trong việc thanh toán và tăng doanh thu. Việc sử dụng thẻ ngân hàng còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội như giảm chi phí in ấn, kiểm đếm tiền mặt, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt theo đúng chủ trương của Chính phủ, đồng thời hiện đại hóa hệ thống thanh toán quốc gia, minh bạch hóa các giao dịch tài chính cũng như phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
* ...Nhưng phí phải hợp lý Theo thống kê sơ bộ, cuối năm 2012 đã có 47 ngân hàng thương mại tham gia phát hành thẻ với hơn 54,2 triệu thẻ thanh toán các loại; số lượng máy ATM trên phạm vi cả nước đạt hơn 14.200 máy. Hầu hết các máy ATM được đặt tại những nơi thuận tiện cho người dân giao dịch như bưu điện, bệnh viện, các cơ quan hành chính, và các trung tâm mua sắm như chợ, siêu thị, các cửa hàng…
Trong số các loại thẻ phát hành, có nhiều loại thẻ thanh toán quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế. Hiệp hội Thẻ đánh giá: sử dụng thẻ thanh toán quốc tế không chỉ giúp khách hàng khỏi lo lắng về nhu cầu ngoại tệ mỗi khi cần đi nước ngoài mà còn giúp họ không mất thời gian tìm kiếm ngoại tệ trên thị trường, không cần giấy tờ chứng minh mục đích mua, hạn mức mua,…
Thường xuyên đi công tác nước ngoài, chị Bùi Bích Hạnh – Công ty Kao cho biết không phải lo tìm đổi một lượng tiền mặt ngoại tệ lớn khi đến các nước khác nhau. Không phải quốc gia nào cũng sử dụng thống nhất một loại tiền tệ, khi dùng thẻ, khách hàng không mất công đổi tiền Việt Nam đồng sang các loại tiền khách nhau, hoặc thậm chí phải quy đổi tiền Việt sang USD rồi sang đó mới đổi tiếp được sang “bản tệ”. Các công đoạn phức tạp này hoàn toàn có thể được hóa giải nhờ thẻ.
Ưu điểm, tiện ích của thẻ tín dụng quốc tế được ghi nhận nhưng không phải khách hàng nào cũng lựa chọn bởi rào cản “phí”. Trên thực tế, nếu dùng thẻ thanh toán trực tiếp tại nước ngoài thì khi về Việt Nam sẽ tính theo tỷ giá quy đổi để khấu trừ. Tuy nhiên, nếu khách hàng dùng thẻ Visa, Master… để rút tiền mặt tại nước ngoài thì phải chịu đồng thời hai loại phí và lãi suất. Đó là phí rút tiền từ 4% - 7%, phí chuyển đổi ngoại tệ 3%- 4% với mức lãi suất thấp nhất cũng vào khoảng 21%/năm được tính ngay từ thời điểm rút tiền.
Riêng thẻ ghi nợ Visa Debit, khi sử dụng ở nước ngoài, chủ thẻ vẫn phải trả phí giao dịch. Nếu rút tiền mặt ở nước ngoài sẽ phải chịu phí rút tiền mặt và phí chuyển đổi ngoại tệ từ 7% - 11%. Còn nếu dùng thẻ Visa Debit để thanh toán thì chủ thẻ chịu phí chuyển đổi ngoại tệ từ 3% - 4%. Khi sử dụng các loại thẻ này, chủ thẻ còn phải đóng phí thường niên từ 200.000 đến 300.000 đồng với thẻ chính, mức cho thẻ phụ kèm theo sẽ giảm hơn chút ít. Cùng đó là hàng loạt loạt phí phát sinh nếu có mà danh mục lên tới con số 17.
Các loại thẻ thanh toán của ngân hàng vẫn còn mới mẻ với đại bộ phận người dân bởi thế không phải khách hàng nào cũng tường tận hết các loại phí mình phải trả khi sử dụng thẻ thanh toán quốc tế. Khi làm thẻ, khách hàng hầu hết chỉ được thông báo các quyền lợi mà họ được hưởng chứ chưa nắm được “nghĩa vụ”.
Bởi vậy mới có chuyện khách hàng rất “ngạc nhiên” khi bị trừ hơn 200.000 đồng trong tài khoản. Đến khi hỏi kỹ mới hay đó là phí thường niên của thẻ. Vì thấy làm thẻ miễn phí nên khách hàng cứ nghĩ lúc nào tiện thì dùng, chắc cũng chả mất gì chứ nếu biết tường tận các khoản “phí chồng phí” chắc sẽ kém mặn mà. Nhiều khách hàng cho rằng, để khuyến khích người dùng sử dụng thẻ thanh toán quốc tế, ngân hàng cần tính toán giảm các loại phí đồng thời công khai các khoản phí.
* Cân nhắc khi sử dụng Đó cũng là lời cảnh báo của các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng đối với khách hàng khi đăng ký thẻ tín dụng bởi ngoài phí thường niên còn có hàng loạt các loại phí khác (ước chừng lên tới 17 loại phí) mà có thể chủ thẻ phải chi trả. Hay gặp nhất là phí chậm thanh toán khi thanh toán trễ hạn.
Nhiều ngân hàng phát hành thẻ ấn định một mức phí cố định áp dụng, trong khi một số khác lại tính phí trễ hạn dựa trên số dư nợ trên tài khoản thẻ. Thường thì mức phí nằm trong khoảng từ 50.000 đến 100.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, chỉ cần thanh toán trễ hạn hai lần trong một năm, số phải trả cho phí chậm thanh toán có thể còn cao hơn cả phí thường niên. Vì vậy, nếu không chắc thanh toán toàn bộ số tiền đúng hạn thì cũng nên thanh toán số tiền tối thiểu được yêu cầu. Khi ấy, lãi sẽ được tính trên tổng dư nợ theo số ngày nợ thực tế, thường ở mức 24%/năm, thậm chí cao hơn, đó là chưa kể những phí giao dịch khác phát sinh nếu có.
Một số ngân hàng phát hành thẻ sẽ tính phí khi chủ thẻ làm mất thẻ hoặc bị đánh cắp nhiều hơn một lần trong năm với mức phí thông thường khoảng 100.000 đồng/lần. Thời gian gần đây, nhiều ngân hàng đã miễn phí mở thẻ cho khách hàng và có nhiều chương trình liên kết giảm giá khi thanh toán qua thẻ tại các trung tâm thương mại lớn. Do đó, nhiều người dễ dàng bị thuyết phục mở thêm thẻ tại ngân hàng khác nhau mà không lường trước những bất cập của nó.
Chị Kim Anh - một khách hàng có “thâm niên” sử dụng thẻ master và visa card của Vietcombank chia sẻ bí quyết phải luôn thanh toán các khoản phải trả đúng hạn và đầy đủ. Nếu mỗi tháng thanh toán hết số dư nợ trên giấy báo nợ thì sẽ tận dụng được khoản vay không lãi suất từ ngân hàng phát hành thẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ thanh toán số tiền tối thiểu trên một số dư đáng kể, có thể mất đến vài năm khách hàng mới thanh toán hết nợ. Phí chậm thanh toán và lãi phạt phát sinh làm tăng thêm áp lực thanh toán dư nợ. Quan trọng nhất, khi dùng thẻ phải luôn chú ý xem kỹ giấy báo thanh toán để nắm chắc hạn phải thanh toán; đồng thời hạn chế số lượng thẻ tín dụng sở hữu (sở hữu nhiều nguồn tín dụng) bởi hai thẻ tín dụng sẽ dễ quản lý, theo dõi hơn là mười thẻ trong người.
Trên thực tế, ngay cả khi sở hữu nhiều loại thẻ nhưng không phải khách hàng nào cũng biết phân biệt và tận dụng lợi thế của từng loại thẻ khác nhau. Đơn cử như thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng. Nếu thanh toán mua hàng bằng thẻ tín dụng, tuỳ từng ngân hàng phát hành thẻ, khách hàng sẽ có từ 20 đến 30 ngày để thanh toán dư nợ phát sinh trên thẻ. Như vậy lợi ích là tận dụng được khoản vay không lãi suất của ngân hàng phát hành với điều kiện khách hàng trả toàn bộ dư nợ mỗi tháng. Trong khi đó, nếu thanh toán bằng thẻ ghi nợ, ngân hàng sẽ trừ tài khoản tiển gửi của khách hàng ngay lập tức. Nếu tiền trong tài khoản không đủ thì ngay cả giao dịch cũng sẽ không được chấp nhận.
Trên lộ trình triển khai thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ ngân hàng là một công cụ tích cực. Tuy nhiên, thói quen sử dụng tiền mặt sẽ dần thay đổi khi khách hàng nhận thấy tiện ích được hưởng với mức phí hợp lý. Đây cũng chính là mấu chốt hiện thực hóa mục tiêu này.
Thu Hằng