Sáng 10/9, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 21, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về dự án Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Đây là dự án luật không chỉ có ý nghĩa về chính trị - pháp lý, mà còn tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội của đất nước trong bối cảnh tích cực chủ động hội nhập quốc tế.
Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn điều hành phiên họp. Phương Hoa - TTXVN |
Góp ý tại buổi làm việc, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Ban soạn thảo cần quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về đối tượng, điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền xem xét, giải quyết cho người nước ngoài được thường trú tại Việt Nam. Ngoài các đối tượng được xét cho thường trú cần quan tâm hơn tới các nhà khoa học, chuyên gia giỏi mà nước ta đang cần tranh thủ cho sự phục vụ đất nước; cần bảo đảm tính thống nhất về thời hạn của thị thực và thẻ tạm trú, nhất là đối với những trường hợp nhập cảnh vào Việt Nam với mục đích làm việc, học tập, hợp tác đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý của các cơ quan, tổ chức có liên quan và cho người nước ngoài.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của dự án luật liên quan chặt chẽ đến những vấn đề hội nhập quốc tế, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đề nghị, việc ban hành luật phải đáp ứng yêu cầu giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong thực tế, trong đó tính đến việc tương thích đối với các luật có liên quan, tránh trùng lặp, bỏ sót những nội dung điều chỉnh nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về hoạt động nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Dự án luật phải được xây dựng thể hiện rõ và đầy đủ nguyên tắc chủ quyền quốc gia và bình đẳng trong quan hệ quốc tế, kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế, mở rộng đối ngoại với bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; khắc phục những hạn chế, bất cập trong thể chế hiện hành.
Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý Ban soạn thảo đặc biệt chú ý đến việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, quy định cụ thể những nội dung liên quan trực tiếp đến người nước ngoài phải thực hiện, bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch và thuận tiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
* Chiều 10/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều nhất trí với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình nhằm thể chế hóa các quan điểm của Đảng, khắc phục những tồn tại, hạn chế của quy định hiện hành và đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của thực tiễn. Sửa đổi, bổ sung Luật nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật và các nguyên tắc cơ bản về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội Nguyễn Văn Hiện lưu ý, dự án Luật cần xử lý hài hòa mối quan hệ giữa việc gìn giữ, phát triển các giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, truyền thống tốt đẹp với quá trình thay đổi của gia đình hiện đại và đời sống xã hội trong quá trình xây dựng dự án Luật. Dự án Luật chỉ nên sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã rõ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn; những vấn đề chưa rõ, chưa phù hợp và chưa thực sự cấp thiết sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và bổ sung vào thời điểm thích hợp.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, đồng thời khẳng định Nhà nước không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa họ và bổ sung quy định giải quyết hậu quả của việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính về quan hệ tài sản, xác định cha, mẹ, con và quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con...
Dự thảo Luật nghiêm cấm việc mang thai hộ vì mục đích thương mại và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với các điều kiện ràng buộc cụ thể, quy định quyền, nghĩa vụ các bên có liên quan và việc giải quyết tranh chấp.
Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhằm đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của nhiều cặp vợ chồng không có khả năng sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, góp phần bảo vệ hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nên nghiêm cấm việc mang thai hộ với bất kỳ mục đích nào vì đây là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, rất dễ bị lợi dụng và chưa thực sự phù hợp với văn hóa Việt Nam. Qua thảo luận, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Điều này thể hiện tính nhân văn trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, tạo cơ hội cho một số cặp vợ chồng được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ chính đáng. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho rằng đây là vấn đề mới, chưa có kinh nghiệm thực tiễn, nên các quy định phải rất chặt chẽ, điều kiện phải rõ ràng, bảo đảm quyền cho các bên và nhất là những đứa trẻ được sinh ra trong trường hợp này.
Xung quanh vấn đề áp dụng tập quán trong thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với quan điểm của Chính phủ về việc cho phép áp dụng tập quán trong thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình. Điều này, thể hiện quan điểm của Nhà nước về sự tôn trọng, bảo tồn và phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp, tiến bộ của các dân tộc; giải quyết được các vấn đề phát sinh liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.
TTN