Ngày 19/5, phóng viên TTXVN tại Hàn Quốc có cuộc phỏng vấn Giáo sư, Tiến sỹ Kim Tae-wan, Trưởng Khoa chính trị Đại học Dong-Eui, Hàn Quốc, liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Phóng viên: Gần đây, Trung Quốc cho lắp đặt giàn khoan Hải Dương 981 bất hợp pháp, tiến hành nhiều hoạt động khiêu khích, gây thiệt hại cho tàu Việt Nam, khiến một số thuyền viên Việt Nam bị thương. Xin Giáo sư cho biết lý do thực tế mà Trung Quốc cho lắp đặt giàn khoan là gì? Một số ý kiến cho rằng, ngoài mục đích thăm dò dầu khí ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc còn có động cơ chính trị, xin Giáo sư cho biết quan điểm của mình về ý kiến trên?
Giáo sư Kim Tae-wan, Trưởng Khoa chính trị Đại học Dong-Eui trả lời phóng viên TTXVN. |
Giáo sư Kim Tae-wan: Trước hết, có thể thấy mục đích của Trung Quốc đương nhiên là thăm dò tiềm năng dầu khí ở dưới đáy biển để có thể tiến hành khai thác trên thực tế. Tuy nhiên, do khu vực quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang lắp đặt giàn khoan không chỉ là khu vực tranh chấp chủ quyền với Việt Nam mà đây còn khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công ước về Luật Biển của LHQ nên khó có thể cho rằng hành động đơn phương của Trung Quốc đang tiến hành chỉ là để thăm dò dầu khí.
Thứ hai, tôi nghĩ rằng, mục đích quan trọng hơn đó là Trung Quốc muốn thể hiện cho bên ngoài thấy lòng
Giáo sư, Tiến sỹ Kim Tae-wan nhận học vị Tiến sỹ tại Đại học Colorado, Mỹ; từng là giáo sư thỉnh giảng tại Trung tâm nghiên cứu Châu Á thuộc Đại học American, Mỹ và học giả nghiên cứu tại Viện nghiên cứu quốc tế, Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc.
Ông là chuyên gia về quan hệ quốc tế, chuyên nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Trung Quốc, quan hệ Mỹ - Trung và từng có công trình nghiên cứu về “Tác động của Luật biển quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp về khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) tại khu vực Đông Bắc Á”. |
tự tin của Trung Quốc về sức mạnh quân sự khi đã sở hữu và vận hành tàu sân bay. Điều này nhằm thị uy với Mỹ và các quốc gia trong khu vực về lòng tự tin của Trung Quốc với trọng tâm là sức mạnh quân đội.
Thứ ba, thông qua chuyến thăm Châu Á của Ngoại trưởng và Tổng thống Mỹ gần đây, Mỹ đã thể hiện rõ ý chí coi trọng Châu Á, không chấp nhận những hành động đơn phương nhằm thay đổi trật tự cơ bản trong khu vực. Trong khi đó, Trung Quốc lại đang coi hành động của Mỹ là nhằm kiềm chế Trung Quốc. Thực tế có nhiều ý kiến cho rằng, với sự phát triển nhanh về sức mạnh kinh tế, quốc phòng, Trung Quốc cho rằng có thể tạo ra sự thay đổi về trật tự trong khu vực Châu Á trong khi đó Mỹ lại không chấp sự thay đổi không mong muốn này nên Mỹ tìm cách ngăn cản sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Như vậy, ngoài mục đích thứ nhất ra, cùng với việc thể hiện quan điểm sẽ không từ bỏ chủ quyền lãnh thổ mà Trung Quốc đang tuyên bố với gần toàn bộ biển Đông, Trung Quốc muốn Mỹ và các quốc gia liên quan thấy rõ ý chí của Trung Quốc. Đây là hành động nhằm kiềm chế chiến lược quay trở lại Châu Á của Mỹ.
Phóng viên: Với việc lắp đặt trái phép giàn khoan dầu khí ở vùng thềm lục địa Việt Nam, xin giáo sư cho biết Trung Quốc được gì và mất gì?
Giáo sư Kim Tae-wan: Theo tôi nghĩ, Trung Quốc sẽ mất nhiều hơn được. Nói về cái được, mặc dù thông qua hành động lần này, Trung Quốc có thể, ở mức độ nào đó, cho Việt Nam và cộng đồng quốc tế thấy Trung Quốc không có ý định từ bỏ quyền lợi ở khu vực này. Tuy nhiên, trong bối cảnh có sự phản đối mạnh mẽ của Việt Nam – nước liên quan trực tiếp, ngay từ giai đoạn đầu nên dù có lắp đặt thành công giàn khoan, Trung Quốc cũng không thể được cộng quốc tế công nhận khu vực đó là chủ quyền của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc dù đang muốn trở thành nước lãnh đạo cộng đồng quốc tế cùng với Mỹ theo kiểu G2 song căn cứ vào sự phản kháng mạnh mẽ của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, Trung Quốc cũng khó có thể tiến hành khai thác dầu trên thực tế tại khu vực này.
Về cái mất, trong bối cảnh Trung Quốc đang mâu thuẫn, tranh chấp sâu sắc với Nhật Bản và Philippines xung quanh vấn đề chủ quyền lãnh thổ, hành vi đơn phương của Trung Quốc không chỉ khiến Việt Nam mà còn khiến các quốc gia trong khu vực Đông Á, bao gồm cả các quốc gia Đông Nam Á, sẽ hoài nghi hơn về việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh kinh tế và quốc phòng. Do đó, dù Trung Quốc có tuyên truyền về sự trỗi dậy hòa bình như thế nào đi chăng nữa thì khi nảy sinh các mâu thuẫn, tranh chấp với đại bộ phận các quốc gia láng giềng như hiện nay, các quốc gia này sẽ đoàn kết lại và tiến hành các hoạt động nhằm kiềm chế việc cường quốc hóa của Trung Quốc. Điều này dẫn tới kết quả là sẽ giúp cho Mỹ thực hiện chiến lược quay trở lại Châu Á. Các quốc gia Châu Á đang có mâu thuẫn với Trung Quốc sẽ mượn sức mạnh của Mỹ để đối kháng với Trung Quốc.
Phóng viên: Có ý kiến cho rằng Việt Nam nên đưa vấn đề chủ quyền lãnh hải với Trung Quốc ra tòa án quốc tế, giống như Philippines đã làm. Làm một chuyên gia về Luật biển quốc tế, ý kiến của Giáo sư về vấn đề này như thế nào?
Giáo sư Kim Tae-wan: Cũng có trường hợp các bên liên quan đưa vấn đề chủ quyền lãnh thổ ra toà án quốc tế, nhưng số này ít. Đặc biệt, trong trường hợp vấn đề đó không chỉ liên quan đến chủ quyền lãnh thổ mà còn liên quan đến nguồn tài nguyên năng lượng to lớn nên không dễ gì các bên liên quan giao lợi ích quốc gia to lớn của mình cho bên thứ ba phán xét. Việc giải quyết vấn đề thông qua sự can thiệp của bên thứ ba chỉ nên coi là giải pháp cuối cùng. Bên cạnh đó khi đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền lên toàn án Tư pháp quốc tế hoặc Tòa án biển quốc tế thì điều này cũng đồng nghĩa với việc công nhận tranh chấp đó là tranh chấp song phương.
Điều quan trọng hơn ở đây là, vấn đề phát sinh ở biển Đông của Việt Nam cũng là vấn đề chung của các quốc gia tiếp giáp biển Đông. Nói rộng ra, biển Đông cũng là vùng biển mà Hàn Quốc mà Nhật có lợi ích quan trọng vì phần lớn giao lưu thương mại và nguồn cung cấp dầu đều thông qua vùng biển này. Theo đó, cần đặt mục tiêu xây dựng cơ chế liên kết vấn đề trên biển của khu vực Đông Á (Đông Nam Á và Đông Bắc Á) trên cơ sở Công ước LHQ về Luật biển quốc tế.
Các vùng biển ở khu vực Đông Á, bao gồm cả biển Đông, cơ bản đều có nhiều vùng chồng lấn ở khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia ven biển. Do vùng đặc quyền kinh tế đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho các quốc gia ven biển nên việc xác lập đường ranh giới trên biển ở khu vực này là rất khó. Ở Biển Đông, cùng với vấn đề chủ quyền, ở khu vực chồng lấn còn có lợi ích tài nguyên to lớn nên vấn đề này càng khó hơn.
Theo đó, về lâu dài, các nước trong khu vực cùng chia sẻ lợi ích, tiến hành hợp tác khai thác chung và theo phương hướng cùng chia sẻ lợi ích sẽ là điều hợp lý. Để thực hiện theo hướng này, trong giai đoạn đầu, trước khi chính phủ trực tiếp đứng ra, cần thúc đẩy hình thành dư luận trong khu vực, đặc biệt là trong các chủ thể phi chính phủ, trong đó giới chuyên gia, học giả có ảnh hưởng đến quyết định chính sách của đất nước, cần phải đi tiên phong trong trong vấn đề này. Trên cơ sở nền tảng lòng tin lẫn nhau được xây dựng thông qua hoạt động tập thể của các chuyên gia, có thể bắt đầu tính tới việc hợp tác giữa chính phủ các nước liên quan về vấn đề này.
Phóng viên: Giáo sư có thể đưa ra một số dự báo về tình hình hiện nay hay không? Liệu Trung Quốc có tiếp tục những hành động leo thang hay sẽ tìm cách hạ nhiệt?
Giáo sư Kim Tae-wan: Như khi đã trả lời ở câu hỏi về cái được cái mất của Trung Quốc, tôi nghĩ tình hình này sẽ không tiếp tục kéo dài lâu vì càng để kéo dài lâu, Trung Quốc càng bị gánh nặng. Các quốc gia láng giềng đang có vấn đề tương tự như vậy không chỉ liên kết lại với nhau mà còn tìm cách liên kết với Mỹ để cụ thể hóa các hoạt động đối kháng với Trung Quốc nên đây là điều Trung Quốc không mong muốn.
Theo đó, chính phủ Việt Nam cần xử lý một cách bình tĩnh dựa trên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế để Trung Quốc thấy rõ việc kéo dài hóa căng thẳng như hiện nay tuyệt đối không có lợi cho Trung Quốc vì các lý do đã nêu trên, đồng thời Việt Nam có thể thông qua các kênh chính thức, không chính thức trao đổi, giao thiệp với nhà cầm quyền Trung Quốc. Trong quá trình này, các cuộc tuần hành phản đối Trung Quốc của người dân Việt Nam có thể có vai trò tích cực trên khía cạnh cho Trung Quốc thấy rõ ý chí đoàn kết vững chắc của người dân Việt Nam, nhưng nếu các cuộc biểu tình này bị biến thành các hành vi bạo động thì sẽ gây ra tác động tiêu cực ngược lại.
Phóng viên: Là một chuyên gia về quan hệ Mỹ - Trung, Giáo sư đánh giá sự việc trên sẽ tác động như thế nào tới quan hệ Mỹ - Trung trong thời gian tới? Liệu Mỹ có can thiệp sâu hơn vào Biển Đông nếu như Trung Quốc tiếp tục leo thang gây hấn ở Biển Đông?
Giáo sư Kim Tae-wan: Hành động đơn phương của Trung Quốc như vừa qua có thể phủ bóng đen lên quan hệ Mỹ - Trung. Trung Quốc thể hiện sự bất mãn đối với chiến lược quay trở lại Châu Á của Mỹ. Các quốc gia láng giềng Châu Á sẽ đề nghị Mỹ kiềm chế Trung Quốc chừng nào Trung Quốc còn gây ra căng thẳng với những nước Châu Á láng giềng. Ngoại trừ Trung Quốc đang duy trì quan hệ đồng minh với Triều Tiên về mặt hình thức, Trung Quốc đang có quan hệ va chạm với đại bộ phận 14 quốc gia láng giềng. Ngược lại, Mỹ đang có quan hệ đồng minh hoặc quan hệ hữu nghị với đại bộ phận 14 quốc gia đang có quan hệ va chạm với Trung Quốc. Trong tình hình này, ngay cả Trung Quốc cũng không mong muốn làm bùng phát mâu thuẫn, va chạm với các quốc gia láng giềng lên mức trầm trọng hơn.
Trong khi đó, thời gian tới, trong bất kể trường hợp nào, Mỹ cũng sẽ không một mình đối đầu trực diện với Trung Quốc ở khu vực Châu Á. Trong bối cảnh Mỹ phải tiếp tục cắt giảm chi phí quốc phòng do khó khăn kinh tế, phương pháp mà Mỹ có thể duy trì hiệu quả ảnh hưởng ở khu vực Châu Á là dựa vào các đồng minh. Bên cạnh đó, Mỹ có thể kiềm chế Trung Quốc và duy trì ảnh hưởng cần thiết ở khu vực vực Châu Á với một chi phí rất nhỏ thông qua quan hệ đồng minh song phương và đa phương với các quốc gia đang có nhận thức cần thiết phải kiềm chế Trung Quốc. Trong khi đó, các quốc gia châu Á thiết lập quan hệ đồng minh với Mỹ dù trực tiếp hay gián tiếp thì mỗi khi cần cũng sẽ tranh thủ Mỹ.
Phạm Duy – Việt Cường