Thu hẹp khoảng cách, nâng cao đời sống người dân
Trình bày báo cáo kết quả giám sát, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, đây là lần đầu tiên Quốc hội tiến hành giám sát giữa kỳ và tiến hành đồng thời với 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Phạm vi rộng cùng với yêu cầu đổi mới, Đoàn giám sát đã giải quyết nhiều nhiệm vụ, khối lượng công việc lớn với cách tiếp cận và cách làm mới phù hợp.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của cả nước đã bám sát mục tiêu “gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp; phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hóa đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới cấp thôn, bản. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới; xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hóa truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững” và đạt được kết quả ban đầu rất quan trọng.
Về giải ngân vốn, lũy kế đến hết tháng 6/2023, vốn đầu tư công năm 2022 chuyển sang thực hiện năm 2023 giải ngân khoảng 83%. Vốn thực hiện năm 2023 đạt 44,5%, cao nhất trong ba chương trình mục tiêu quốc gia.
Tính đến 30/6/2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. 263/644 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới. 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. 1.145/3.513 thôn, bản, ấp được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Bình quân cả nước đạt 16,9 tiêu chí/xã; có 2 tiêu chí đã vượt mục tiêu giai đoạn 2021-2025 (về giáo dục và đào tạo, văn hóa), 8 tiêu chí được đánh giá gần đạt mục tiêu.
Về chương trình giảm nghèo bền vững, báo cáo chỉ rõ, chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu “thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn”.
Mục tiêu này cao hơn so với giai đoạn trước, gắn với các mục tiêu phát triển bền vững, áp dụng chuẩn nghèo đa chiều bao trùm địa bàn, đối tượng thực hiện chương trình là các “lõi nghèo” của cả nước.
Tổng nguồn vốn thực hiện từ tháng 12/2021 đến năm 2023 hơn 23.130 tỷ đồng, chiếm 30,84% tổng nguồn vốn 5 năm, trong đó nguồn vốn ngân sách Trung ương chiếm khoảng 95%. Vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đến 30/6/2023 lũy kế là 34.527 tỷ đồng, chiếm 10,8%.
Bước đầu, đời sống người nghèo, hộ cận nghèo, địa bàn nghèo có bước cải thiện, nâng cao; cơ bản thực hiện đạt các mục tiêu, chỉ tiêu giảm nghèo hằng năm. Năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,52% so với năm 2020, chưa đạt so với mục tiêu Quốc hội giao nhưng trong bối cảnh chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,58%, kết quả giảm nghèo cũng là một nỗ lực được ghi nhận. Năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,17% và ước thực hiện năm 2023 giảm 1,1%, tỷ lệ giảm nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%, đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Nghị quyết 24 của Quốc hội đề ra.
Đối với chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cho biết, quá trình triển thực hiện đã bám sát mục tiêu tổng quát là “giảm nghèo nhanh, bền vững, giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn, sắp xếp ổn định dân cư, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ, thu hẹp dần khoảng cách mức sống, thu nhập so với bình quân chung của cả nước...”.
Chương trình thực hiện đã tích hợp các văn bản chính sách dân tộc ở giai đoạn trước, bước đầu khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải để tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế-xã hội ở vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn.
Kết quả giải ngân từ năm 2021 - 2023 đã hoàn thành và thanh toán vốn Trung ương đạt 18,9% so với kế hoạch trung hạn, trong đó vốn đầu tư phát triển 19,5%; vốn sự nghiệp 12,3%. Theo báo cáo của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2022 giảm 3,4%, đạt và vượt mục tiêu kế hoạch giao. Nhiều chỉ tiêu về hạ tầng, kinh tế-xã hội khác cơ bản đạt so với mục tiêu của chương trình. Chính phủ cam kết hoàn thành giải ngân 100% vốn và đạt được các chỉ tiêu đặt ra trong Nghị quyết Quốc hội đến năm 2025.
Bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại, hạn chế khi triển khai 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Cụ thể, hệ thống các văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện của Trung ương và địa phương nhiều, ban hành chậm, chưa đồng bộ, còn có vướng mắc nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời; chưa ban hành tiêu chí nông thôn mới phù hợp cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách Trung ương phân bổ chậm, tỷ lệ đối ứng còn cao; kết quả xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều, chưa thực sự bền vững; vẫn còn vi phạm trong quản lý tài chính…
Làm rõ thành tựu, hạn chế để đề xuất giải pháp thuyết phục
Tại phiên họp, Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh cơ bản đồng tình với bố cục, nội dung trình báo cáo kết quả giám sát; đồng thời đề nghị thống nhất cách diễn đạt giữa kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế nhằm đảm bảo tính logic trong đánh giá thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Với nhiều nội dung triển khai thực hiện, bà Nguyễn Thị Thanh cho rằng, điểm nhấn chung của các chương trình mục tiêu quốc gia là việc tổ chức sản xuất, tạo sinh kế cho người dân một cách bền vững. Vấn đề này “đã được đề cập nhưng liều lượng còn ít”. Bởi vì, trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nhóm tiêu chí về tổ chức sản xuất là nội dung khó nhất vì liên quan đến phát triển bền vững, gắn với kinh tế nông thôn và vấn đề “tam nông” là nông dân - nông thôn - nông nghiệp.
Do đó, bà Nguyễn Thị Thanh đề nghị, nội dung báo cáo giám sát cần làm rõ, thông tin đậm nét, có trọng tâm, trọng điểm hơn trong từng chương trình liên quan đến việc tổ chức sản xuất, tạo sinh kế cho người dân, để từ đó kiến nghị, đề xuất các giải pháp thuyết phục, khả thi trong thời gian tới.
Đồng quan điểm, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đánh giá cao Đoàn giám sát đã giải quyết nhiều nhiệm vụ, khối lượng công việc lớn, bởi đây là lần đầu tiên Quốc hội tiến hành giám sát giữa kỳ và tiến hành đồng thời với ba chương trình mục tiêu quốc gia có phạm vi rộng, yêu cầu đổi mới rất cao.
Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Quốc hội cho rằng, báo cáo còn một số điểm chưa rõ, chưa thống nhất nội dung nổi bật của 3 chương trình nên tính khả thi của các giải pháp rất khó để xem xét thông qua; cần tập trung làm rõ kết quả theo giai đoạn 2020 - 2023 và dự báo giai đoạn 2023 - 2025, thành tựu đạt được cũng như các tồn tại, hạn chế để đề ra giải pháp khắc phụ cụ thể, hiệu quả hơn.
Đề nghị báo cáo cần bám sát một số yêu cầu, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, các nhận định trong báo cáo phải bảo đảm khách quan, chính xác, có cơ sở thực tiễn thuyết phục, phù hợp với các kiến nghị, đề xuất. Số liệu dẫn chứng phải vừa khái quát, vừa cụ thể, minh chứng cho đánh giá mặt được, chưa được và nguyên nhân chủ quan, khách quan. Bên cạnh đó cần chỉ ra trách nhiệm cụ thể của các cơ quan để giải trình, làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan của từng hạn chế, bất cập...
Chia sẻ với khó khăn khi thực hiện giám sát cùng lúc ba chương trình với phạm vi rộng, nhiều đầu mối, nhiều chính sách, cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng.., Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội cho rằng, báo cáo cần nêu trọng tâm 3 hạn chế cơ bản: Giải ngân vốn thấp; lồng ghép còn hạn chế; một số chỉ tiêu giao chưa phù hợp với thực tiễn cơ sở địa phương. Từ đó đề ra cụ thể những nội dung cần sửa cụ thể, chính xác để việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia được thông suốt.
Cùng với việc chia sẻ, nhân rộng mô hình làm tốt, hiệu quả, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị các giải pháp cần được tập trung lồng ghép nguồn vốn thực hiện, sử dụng vốn tập trung, tiết kiệm, hiệu quả, không để phát sinh nợ đọng, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn dự án. Việc phân bổ vốn tập trung, cụ thể, rõ ràng, minh bạch, có tính đến các yếu tố đặc thù.
Bên cạnh đó, các địa phương rà soát danh mục dự án để tránh đầu tư dàn trải, gây lãng phí nguồn lực và thời gian; hoàn tất việc ban hành văn bản hướng dẫn, rà soát lại các văn bản đã ban hành để sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của địa phương trên nguyên tắc phân cấp mạnh mẽ, nội dung dễ hiểu dễ thực hiện; tăng cường kiểm tra, giám sát, qua đó kịp thời phát hiện vấn đề, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng xử lý...