Trong phần trả lời chất vấn của mình, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng phân tích sâu về các công trình thủy điện, thủy lợi, về công tác tìm kiếm cứu nạn...
Phó Thủ tướng đã trả lời các câu hỏi của ĐBQH về nguyên nhân, giải pháp ứng phó thiên tai:
Đợt mưa lũ kéo dài cùng với cơn bão số 9 – cơn bão mạnh nhất trong 20 năm trở lại đây - vừa xảy ra ở các tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại nặng nề về tính mạng và tài sản của người nhân và của nhà nước. Đợt thiên tai này đã được sự quan tâm chia sẻ của cử tri và nhân dân cả nước đặc biệt là ý kiến chia sẻ của nhiều vị Đại biểu Quốc hội về những nỗ lực của hệ thống chính quyền trong: phòng chống thiên tai; những tồn tại và nguyên nhân, giải pháp cần phải làm trong thời gian tới để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân.
Hiện nay tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai dị thường, đặc biệt là bão lũ và sạt lở đất đang là thách thức lớn với hầu hết các quốc gia trên thế giới mà trong đó Châu Á là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất. Nhật Bản, một đất nước phát triển nhưng mà số vụ mưa lũ, gây sạt lở đất hàng năm trong giai đoạn vừa qua là khoảng 150 nghìn lượt/năm, tăng 1,5 lần so với giai đoạn trước (giai đoạn 2001-2010). Mưa lũ, sạt lở đất đá đã gây thiệt hại rất nặng nề về người, tài sản ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philippin,... Ở nước ta, mưa lũ, sạt lở đất ở nhiều nơi.
Nguyên nhân chính của sạt lở đất, các nhà khoa học, các ĐBQH đã trả lời. Tôi quan tâm hơn đến nguyên nhân chủ quan của con người.
Trước hết nói về rừng, trong những năm vừa qua thì thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển kinh tế rừng thì rừng Việt Nam đã để phục hồi nhanh chóng. Năm 1945, rừng Việt Nam chiếm khoảng 43% thì đến năm 1995 chỉ còn 28%. Nhưng đến nay độ che phủ rừng của Việt Nam đã đạt trên 41% và đứng thứ 50/193 quốc gia và vùng lãnh thổ; cao hơn, độ che phủ rừng của một số nước trong khu vực (Trung Quốc 28%, Thái Lan 21%,...) và cao hơn nhiều mức bình quân che phủ rừng của thế giới xấp xỉ 3%.
Tuy nhiên, chất lượng rừng của nước ta còn thấp. Do thời gian dài rừng tự nhiên chúng ta bị phá để phát triển kinh tế. Rừng mới, chất lượng rừng không cao. Tình trạng phá rừng để làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp, phát triển kinh tế vẫn chưa được ngăn chặn triệt để và có hiệu quả, đặc biệt là tình trạng phá rừng, lấy gỗ, xây nhà,... thì cũng ảnh hưởng đến rừng, chưa được kiểm soát. Việc trồng rừng thay thế chưa được kiểm soát chặt chẽ. Từ đó đã ảnh hưởng đến bảo vệ môi trường, giữ nước ngọt và cũng là một nhân tố gây sạt lở đất khi có mưa lũ.
Thứ hai là do việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội tại các khu vực miền núi như các công trình giao thông, đường dây tải điện, hệ thống đường ống,... đã làm thay đổi địa hình, tác động tới ổn định kết cấu địa chất và dễ gây sạt lở đất. Các tuyến đường giao thông miền núi khi đi kiểm tra tìm kiếm cứu nạn thì tôi thấy liên tục bị sạt lở. Mặt khác, việc xây dựng các công trình giao thông, các công trình xây dựng khác cũng gây cản trở thoát lũ làm cho lũ dâng cao.
Thứ ba là việc xây dựng các công trình nhà ở, các công trình bệnh viện, trường học, công sở, các điểm dân cư tự phát… tại khu vực miền núi thiếu nghiên cứu yếu tố địa chất cũng là nhân tố tác động làm sạt lở đất đá trong mùa mưa lũ.
Thứ tư là việc xây dựng các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện… nếu không được kiểm soát chặt chẽ từ khâu quy hoạch, lập dự án, đánh giá tác động môi trường, cho đến khâu đầu tư xây dựng và quản lý vận hành sẽ tác động rất lớn đến mưa lũ, sạt lở đất và đe dọa đến an toàn vùng hạ du. Hiện nay nước ta có trên 7.500 hồ thủy lợi, thủy điện thì đã đưa vào vận hành khai thác với dung tích khoảng 70 tỷ mét khối nước, trong đó có 437 hồ thủy điện - thủy lợi.
Có thể nói trong những năm qua các hồ, đập thủy lợi, thủy điện có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước nước, đáp ứng nguồn nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Hồ thủy điện cũng góp phần cắt lũ, đặc biệt là các hồ lớn, các hồ thủy điện: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Kẻ Gỗ, Sông Tranh,...
Các hồ thủy lợi, thủy điện vừa và nhỏ cũng tham gia cắt lũ, trừ trường hợp lũ lớn phải xả lũ và thường xả tối đa bằng với lưu lượng lũ về hồ. Hồ thủy điện điều tiết nước cho mùa cạn, tạo nguồn điện rất lớn. Tổng công suất thủy điện tiềm năng của nước ta là khoảng 36.000 MW, tổng công suất khai thác kỹ thuật khoảng 28.000 MW thì hiện nay chúng ta đã khai thác được 20.000 MW, chiếm khoảng 30 % tổng công suất nguồn điện.
Nguồn thủy điện là nguồn năng lượng sạch, giá rẻ, vận hành thuận lợi và là nguồn nội lực tài nguyên của đất nước. Khác với các nguồn điện than, khí hóa lỏng, ta phải phụ thuộc vào nguồn năng lượng sơ cấp nước ngoài. Do đó các công trình thủy lợi, thủy điện có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước.
Tuy nhiên, để xây dựng công trình hồ, đập thủy lợi, thuỷ điện cũng có tác động tiêu cực đến môi trường, vì các công trình hồ thủy lợi, thủy điện đa số đều xây dựng ở khu vực trung du, miền núi nên sẽ ảnh hưởng đến diện tích rừng. Đồng thời việc xây dựng các công trình còn tác động đến sự ổn định của kết cấu đất đá nên cũng có thể tác động đến sạt lở đất.
Thứ năm là lực lượng tìm kiếm cứu nạn tuy huy động được các lực lượng Trung ương, địa phương, quân đội, công an với phương châm 4 tại chỗ nhưng chưa có lực lượng ứng phó thiên tai, tìm kiếm nạn chuyên nghiệp. Nhất là ở cơ sở, lực lượng chủ yếu là kiêm nhiệm, thiếu các phương tiện chuyên dùng, do đó rất khó, chậm tiếp cận đến điểm xảy ra sạt lở, thiên tai. Từ đó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác tìm kiếm cứu nạn.