Phát huy nguồn lực kiều bào trong tổng thể nguồn lực quốc gia

Nhân Hội nghị chuyên đề về công tác người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, ông Ngô Trịnh Hà, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao, đã trả lời phỏng vấn TTXVN về kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết; những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới nhằm phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chú thích ảnh
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Ngô Trịnh Hà. Ảnh: vietnamplus.vn

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW, xin ông đánh giá ngắn gọn về kết quả triển khai công tác đại đoàn kết đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài?

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW, được sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc mạnh mẽ của các ban, bộ, ngành, địa phương, công tác đại đoàn kết đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã đạt được nhiều bước tiến và kết quả quan trọng.

Về tư tưởng và nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và các cơ quan đảng đoàn Việt Nam ở nước ngoài về việc triển khai các chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được nâng cao. Các quan điểm, chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc đối với kiều bào hợp “ý Đảng, lòng dân”, do vậy nhận được sự đồng tình, ủng hộ và đồng lòng thực hiện của người dân ở trong và ngoài nước. 

Niềm tin của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự phát triển của đất nước, niềm tự hào dân tộc trong đồng bào ta ở xa Tổ quốc ngày càng được củng cố, tăng cường. Cùng với công tác dân vận, vận động những người có uy tín, trình độ chuyên môn trong cộng đồng, việc tạo điều kiện cho các nhà báo, kênh truyền thông của người Việt Nam ở nước ngoài về thăm Việt Nam cũng đã tạo hiệu ứng tích cực. Niềm tin của cộng đồng kiều bào đối với các đường lối chính sách, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước được nâng lên rõ rệt.

Những biện pháp đột phá và chủ động trong công tác vận động kiều bào đã tạo sự chuyển biến về quan điểm của một bộ phận kiều bào trước đây còn tư tưởng khác biệt, qua đó góp phần phát huy nguồn lực kiều bào trong tổng thể nguồn lực quốc gia, tăng cường đại đoàn kết dân tộc.

Về kết quả cụ thể, kể từ khi Nghị quyết 23-NQ/TW được ban hành và đi vào đời sống, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành nội dung gắn liền với mọi mặt của công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới; Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, được ban hành, là nền tảng thúc đẩy hơn nữa sức mạnh đoàn kết, hòa hợp dân tộc với người Việt Nam ở nước ngoài; từ đó đẩy mạnh thể chế hóa và hoàn thiện hàng loạt chính sách, quy định pháp luật... đối với kiều bào.

Cùng với đó, các mặt công tác về người Việt Nam ở nước ngoài được các cơ quan, ban, ngành Trung ương và địa phương triển khai toàn diện, công tác chăm lo, hỗ trợ cộng đồng kiều bào được đẩy mạnh, giúp cộng đồng ngày càng hội nhập, ổn định, phát triển ở sở tại và gắn bó với quê hương. Có thể thấy, kiều bào ngày càng hướng về đất nước và trở thành một nguồn lực quan trọng, đóng góp cả nguồn lực vật chất, tri thức và nguồn lực “mềm” vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao vị thế quốc gia, thắt chặt quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với nước sở tại.

Xin ông cho biết những khó khăn, thách thức và bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW, trong công tác người Việt Nam ở nước ngoài?

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn gặp một số khó khăn, thách thức.

Cụ thể, công tác vận động các cá nhân kiều bào có ý kiến khác biệt chưa đạt được kết quả như mong muốn; công tác thu hút nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của kiều bào, mới tập trung vào nguồn lực kinh tế mà chưa khai thác, phát huy được hết tiềm năng về nguồn lực mềm và nguồn lực tri thức. Trong khi đó, công tác hỗ trợ kiều bào ổn định cuộc sống, nâng cao địa vị pháp lý, hội nhập vào xã hội sở tại còn gặp nhiều khó khăn, mà nguyên nhân chính là hạn chế về nguồn lực và cơ chế huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực. Công tác quản lý người đi lao động, học tập ở nước ngoài và vai trò tuyên truyền, giáo dục của các cấp ủy nước ngoài chưa phát huy hiệu quả.

Ngoài ra, nội dung và phương thức giảng dạy và học tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều điểm chưa phù hợp và hấp dẫn người học, khó khăn trong việc duy trì hàng ngày. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng gặp nhiều khó khăn do cộng đồng ngày càng hòa nhập vào xã hội sở tại và thế hệ trẻ giảm gắn kết với quê hương. Công tác thông tin đối ngoại dành cho kiều bào tuy đã được quan tâm nhưng cần đổi mới về nội dung, phương thức chuyển tải để đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng lớn của kiều bào và tình hình thế giới.

Để tiếp tục triển khai hiệu quả công tác đại đoàn kết đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết 23-NQ/TW, cần quán triệt sâu sắc một số bài học kinh nghiệm. Theo đó, việc ban hành và triển khai thực hiện các đường lối, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần được tiến hành đồng bộ, nhất quán hơn nữa, phù hợp với ý Đảng, lòng dân, đáp ứng mong mỏi của bà con sẽ khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc của đồng bào ta ở nước ngoài, đồng thời tạo được sự hưởng ứng, tự nguyện, tự giác đón nhận của đông đảo kiều bào.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục quán triệt sâu rộng, triển khai tốt và đồng bộ hơn nữa những chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Trước mắt, cần tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và mọi người dân về công tác đối với kiều bào, cũng như sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự quan tâm của các cấp ủy đảng, các ban, bộ, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt sự vào cuộc của các cơ quan đảng đoàn Việt Nam ở nước ngoài.

Công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài vừa thuộc chức năng quản lý nhà nước, vừa là hoạt động mang tính chất dân vận. Do vậy, cần thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc, đối thoại cả ở trong và ngoài nước, lắng nghe, giải quyết thỏa đáng mọi kiến nghị, tâm tư của đồng bào ta ở nước ngoài; thường xuyên đổi mới và đa dạng hóa nội dung, hình thức truyền thông phù hợp với điều kiện và đặc thù của từng địa bàn; kịp thời tôn vinh những điển hình tiên tiến trong công tác cộng đồng.

Thêm vào đó, kết quả triển khai chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài và chính sách đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước có mối quan hệ qua lại. Chính sách đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước được triển khai tốt sẽ nâng cao uy tín và vị thế của đất nước, tăng cường quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước, qua đó gia tăng điểm đồng lợi ích để các nước tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam và thể hiện sự tôn trọng đó khi giải quyết các vấn đề liên quan đến cộng đồng kiều bào. Điều này tác động tích cực tới họ, tăng cường gắn kết đồng bào ta ở nước ngoài với quê hương. Đồng thời, nếu chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài được triển khai tốt, hiệu quả sẽ thu hút và phát huy mạnh mẽ nguồn lực của cộng đồng, đóng góp vào quan hệ đối ngoại, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước .

Trong thời gian tới, những nhiệm vụ trọng tâm nào sẽ được triển khai nhằm phát huy sức mạnh cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác đại đoàn kết toàn dân tộc, thưa ông?

Tôi cho rằng, cần tiếp tục tuyên truyền, quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đại đoàn kết dân tộc đối với người Việt Nam ở nước ngoài thông qua huy động sự tham gia của các cấp ủy đảng ở trong và ngoài nước trong công tác phổ biến, quán triệt Nghị quyết 23-NQ/TW và các văn bản chỉ đạo của Đảng về đại đoàn kết đối với người Việt Nam ở nước ngoài; tiếp tục rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, phù hợp với đặc thù của người Việt Nam ở nước ngoài và triển khai đồng bộ các chính sách liên quan, thể hiện tinh thần động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi về nước thăm thân, công tác, đầu tư, sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học…

Cùng với đó, kiên trì vận động các cá nhân kiều bào có ý kiến khác biệt, từng bước gỡ bỏ định kiến, thu hẹp khoảng cách với các cá nhân này và vận động họ có hành động phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc thông qua một số giải pháp cụ thể như: Tăng cường và chủ động tiếp xúc, đối thoại trên tinh thần chân thành, cởi mở, chấp nhận quan điểm khác biệt để thấu hiểu lẫn nhau; tiếp tục quan tâm giải quyết các vấn đề do lịch sử để lại nhằm đáp ứng tâm tư, nguyện vọng chính đáng của kiều bào; tiếp tục hỗ trợ và phát huy vai trò của các lực lượng nòng cốt, những người có uy tín, ảnh hưởng trong cộng đồng, phù hợp với pháp luật nước sở tại và pháp luật Việt Nam; có cơ chế khen thưởng, tôn vinh, động viên, khích lệ kịp thời kiều bào có đóng góp tích cực.

Đồng thời, phát huy nguồn lực của cộng đồng, khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách ưu đãi người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc, nghiên cứu khoa học như môi trường làm việc, lương và chế độ đãi ngộ.

Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý kiến đóng góp của các chuyên gia, đội ngũ trí thức, cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài; xây dựng chương trình, kế hoạch, dự án trọng điểm trong các lĩnh vực cụ thể hoặc ở từng địa phương nhằm thu hút chuyên gia, trí thức, doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài.

Theo tôi, cần triển khai các biện pháp tổng thể hỗ trợ đồng bào, nhất là ở những địa bàn khó khăn, có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, tuân thủ pháp luật và hội nhập thuận lợi vào xã hội sở tại; tiếp tục tăng cường và củng cố quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước, tích cực đề nghị Chính phủ sở tại tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam ổn định, hội nhập vào xã hội sở tại, được đối xử bình đẳng như các cộng đồng sắc tộc khác... thông qua các tiếp xúc cấp cao.

Ngoài ra, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh…, tăng cường lực lượng, biện pháp và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, an ninh, phòng, chống tội phạm, ngăn chặn hiệu quả nạn buôn người, xuất nhập cảnh, cư trú trái phép, qua đó hỗ trợ bảo đảm an ninh trong cộng đồng; xử lý triệt để, đẩy lùi tình trạng người Việt Nam vi phạm pháp luật nước sở tại; đa dạng hóa các nguồn lực hỗ trợ cộng đồng.

Việc đa dạng hóa các hoạt động hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài gìn giữ tiếng Việt và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc là rất cần thiết; chú trọng hợp tác với nước sở tại, đổi mới, nâng cao hiệu quả nội dung và phương thức tổ chức dạy và học tiếng Việt; tập trung thúc đẩy đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy ở các cơ sở giáo dục tại địa bàn có đông người Việt Nam; nghiên cứu đầu tư, xây dựng trung tâm văn hóa của người Việt tại các địa bàn này.

Ngoài ra, đổi mới nội dung, phương thức và tư duy của công tác thông tin đối ngoại đảm bảo phù hợp và đáp ứng nhu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài. Cần kịp thời thông tin về tình hình đất nước và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; phát huy hiệu quả các phương tiện truyền thông đa dạng của cộng đồng; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp, phản ứng nhanh, kịp thời phản bác những luận điệu sai trái, không đúng sự thật về tình hình đất nước; tiếp tục xây dựng cơ chế phối hợp và kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ trực tiếp làm công tác ở nước ngoài; tăng cường nguồn lực thực hiện công tác về người Việt Nam ở nước ngoài.

Trân trọng cảm ơn ông!

Diệp Trương (TTXVN)
Truyền thông về tôn giáo với sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc
Truyền thông về tôn giáo với sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc

Tham luận tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX (nhiệm kỳ 2022 - 2027) chiều 28/11, đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền thông Phật giáo, Hòa thượng, Tiến sỹ Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự - Trưởng ban Thông tin Truyền thông Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định, truyền thông là thước đo chiều sâu các hoạt động Phật sự. Giáo hội đã xác định truyền thông Phật giáo là một bộ phận không thể tách rời trong sự nghiệp hoằng pháp. 

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN