Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình nêu rõ, việc thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, hoạt động của Tòa án các cấp đã đi vào nền nếp và phát huy tác dụng, nhưng trong thực tiễn thi hành Luật đã bộc lộ một số bất cập cần sửa đổi.
Theo quy định của luật, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có 17 thành viên, bao gồm: Chánh án, các Phó Chánh án và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Luật; trong đó, phải có tối thiểu 5 năm là Thẩm phán cao cấp. Trong khi đó, Thẩm phán cao cấp là ngạch Thẩm phán mới được quy định từ năm 2015 sau khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành.
Số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 gồm 120 người. Thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Nghị quyết số 81 có 12 người được bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; 63 người được bổ nhiệm (chuyển đổi) Thẩm phán cao cấp.
Tính từ tháng 8/2015 đến tháng 5/2019, số lượng Thẩm phán cao cấp được bổ nhiệm 171 người, cụ thể là: Năm 2015, bổ nhiệm 25 Thẩm phán cao cấp (gồm 18 Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 7 Thẩm phán cao cấp cho Tòa án nhân dân cấp cao); năm 2016, bổ nhiệm 4 Thẩm phán cao cấp (gồm 1 Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 3 Thẩm phán cao cấp cho Tòa án cấp cao); năm 2017, bổ nhiệm 84 Thẩm phán cao cấp (gồm 30 Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 54 Thẩm phán cao cấp cho Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự); năm 2018, bổ nhiệm 49 Thẩm phán cao cấp (gồm 27 Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 22 Thẩm phán cao cấp cho Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự); năm 2019, bổ nhiệm 9 Thẩm phán cao cấp (gồm 6 Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 3 Thẩm phán cao cấp cho Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự).
Trong số Thẩm phán cao cấp được bổ nhiệm trong năm 2015 và năm 2016 đến nay phần lớn đã nghỉ hưu, lớn tuổi, một số không đủ các tiêu chuẩn, điều kiện khác để bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, như: trình độ, năng lực, tín nhiệm... Còn lại 31 người đủ tuổi bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhưng chỉ còn 1 người trong quy hoạch lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao giai đoạn 2016-2021.
Các Thẩm phán cao cấp được bổ nhiệm từ tháng 1/2017 trở lại đây đủ điều kiện quy hoạch lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao giai đoạn 2016-2021 và một số đủ điều kiện quy hoạch giai đoạn 2021-2026 theo quy định. Trong khi đó, việc lựa chọn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngoài tuân thủ các tiêu chuẩn, điều kiện luật định cũng cần phải cân nhắc tạo nguồn quy hoạch lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao.
Hiện nay, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có 16 thành viên, bao gồm: Chánh án, 4 Phó Chánh án, 11 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Năm 2019 có 1 thành viên đã nghỉ hưu, đến năm 2020 sẽ có 4 thành viên nghỉ hưu, năm 2021 sẽ có 3 thành viên nghỉ hưu; đến năm 2022, phần lớn Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ nghỉ hưu.
Từ thực tiễn nêu trên, để bảo đảm hoạt động bình thường của Tòa án nhân dân tối cao, căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao báo cáo Quốc hội xem xét, ban hành Nghị quyết tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV bổ sung Nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về việc thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân theo trình tự, thủ tục rút gọn: Từ nay đến ngày 1/2/2022, cho phép Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong đó có từ nguồn Thẩm phán cao cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện luật định nhưng chưa đủ 5 năm làm Thẩm phán cao cấp.
Báo cáo thẩm tra về việc đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 81 nêu rõ, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 81 nhằm kịp thời bổ sung nguồn Thẩm phán cao cấp để đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bảo đảm hoạt động bình thường của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và bảo đảm điều kiện để kiện toàn lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao; đồng thời, thống nhất với tên gọi, phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết như đã nêu trong nội dung Tờ trình của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Một số ý kiến trong Ủy ban Tư pháp đề nghị để bảo đảm chất lượng thì cần kèm theo điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là: phải có thời gian giữ ngạch Thẩm phán cao cấp tối thiểu là 30 tháng hoặc 36 tháng.
Thảo luận tại tổ, đại biểu Dương Ngọc Hải (TP Hồ Chí Minh) đồng tình với việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 81 và cho rằng, thực tế nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giai đoạn đang gặp nhiều khó khăn do phần lớn đã nghỉ hưu, lớn tuổi, không còn trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, một số không đủ các tiêu chuẩn, điều kiện khác để bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như trình độ, năng lực, tín nhiệm... Đây là một "lỗ hổng" khi xây dựng Nghị quyết 81.
Nhiều đại biểu cho rằng, để xảy ra tình trạng này cho thấy công tác bồi dưỡng, tạo nguồn quy hoạch lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao chưa đáp ứng yêu cầu. Các đại biểu cho rằng, những khó khăn trong thiếu nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đang phát sinh trong thực tiễn cần phải có giải pháp khắc phục để bảo đảm hoạt động bình thường của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và kiện toàn lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao.
Các đại biểu tán thành với nội dung đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi Nghị quyết số 81, quy định điểm a khoản 1 Điều 69 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 được áp dụng theo hướng: Từ nay đến ngày 1/2/2022, cho phép Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong đó có từ nguồn Thẩm phán cao cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo luật định nhưng chưa đủ 5 năm làm Thẩm phán cao cấp.