Sản phẩm dây thép của Công ty cổ phần Dây lưới thép Nam Định. Ảnh minh họa: Danh Lam/TTXVN |
Điều này đã tạo nên nhiều khó khăn trong việc xác định chiến lược, định hướng, quyết tâm khi vướng phải các vụ kiện. Với dự báo việc gia tăng các rào cản về thương mại sẽ tác động không nhỏ đến hoạt động xuất nhập khẩu, nhiều ý kiến cho rằng doanh nghiệp trong nước cần nâng cao hiểu biết về công cụ phòng vệ thương mại cũng như tăng hiệu quả kháng kiện, đảm bảo thị trường và giá trị thặng dư cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Xu hướng bảo hộ Theo ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), trước tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu ngày càng sâu rộng, các hàng rào thương mại truyền thống như thuế quan dần dần được dỡ bỏ, các cam kết mở cửa thị trường được đẩy mạnh cùng với sự gia tăng của các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương là nguyên nhân dẫn đến các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng được các nước sử dụng nhiều như một công cụ hợp pháp để tăng thuế nhập khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước.
Ông Chu Thắng Trung cho biết thêm, đến nay, đã có 132 vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Thị trường điều tra nhiều nhất đối với Việt Nam là Hoa Kỳ (25 vụ), Thổ Nhĩ Kỳ (20 vụ) và Ấn Độ (15 vụ). Cùng đó, số vụ việc bị điều tra nhiều nhất là chống bán phá giá với 78 vụ; chống trợ cấp 12 vụ; chống lẩn tránh thuế 17 vụ; tự vệ 25 vụ.
Hơn nữa, xu hướng các vụ kiện phòng vệ thương mại trên thế giới đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế, kiện domino, kiện kép (kiện đồng thời chống bán phá giá và chống trợ cấp).
Mặt hàng bị kiện nhiều nhất phải kể đến là sắt thép (chiếm gần 50% số vụ chống bán phá giá và 75% vụ chống trợ cấp); tiếp theo là sợi dệt và nông, thủy sản.
Thống kê từ Cục Phòng vệ thương mại cho thấy, tính đến tháng 5/2018, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã có hơn 400 lệnh chống bán phá giá và chống trợ cấp hiệu lực; trong đó có 10 lệnh liên quan đến Việt Nam.
Không những thế, các nước còn có xu hướng điều tra chống lẩn tránh thuế. Vì vậy, Việt Nam đang phải chịu 17 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế; trong đó có 16 vụ do nghi ngờ sản phẩm nguồn gốc từ Trung Quốc.
Gần đây nhất, DOC kết luận 2 sản phẩm thép chống ăn mòn (CORE) và thép cán nguội (CRS) của Việt Nam có sự lẩn tránh thuế từ Trung Quốc.
Tiếp đó, ngày 12/6 vừa qua, Hoa Kỳ đã nhận đơn đề nghị điều tra chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp với 2 mặt hàng của Việt Nam là thép CORE do nghi ngờ lẩn tránh thuế từ lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc và thép CRS do nghi ngờ lẩn tránh thuế từ Hàn Quốc.
Còn Australia thì điều tra chống bán phá giá với dây thép, thậm chí còn áp dụng điều kiện thị trường đặc biệt - một điều khoản tương đương với việc xác định nền kinh tế phi thị trường.
Lý giải thực tế này, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải cho biết, việc chậm công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường là nguyên nhân chính khiến cho doanh nghiệp nội có nguy cơ đối mặt với các rào cản thương mại.
Hiện chỉ có 69 nước công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam, trong khi đó các thị trường nhập khẩu lớn hàng hóa của Việt Nam là Hoa Kỳ, châu Âu, Canada, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ… lại không công nhận dẫn đến phương pháp tính biên độ bán phá giá gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Chia sẻ từ các Hiệp hội ngành hàng cũng cho thấy, mặc dù thông tin hàng hóa của Việt Nam đến thị trường nước ngoài còn nhiều hạn chế nhưng giới truyền thông lại liên tục phản ánh hàng hóa Việt Nam có gian lận xuất xứ.
Do đó, các nước đã đặt nghi vấn về việc một lượng lớn hàng hóa của các nước khác di chuyển sang Việt Nam để gian lận xuất xứ, nhằm tận dụng tối đa ưu đãi thuế xuất khẩu.
Tạo thế vững chãi Ông James Maeder - quyền Vụ phó phụ trách các hoạt động thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng, Vụ Thực thi và Tuân thủ (DOC) khẳng định: Tất cả các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại hoàn toàn do các doanh nghiệp nội địa trong nước yêu cầu, không phải do các cơ quan điều tra khởi xướng.
Tuy nhiên, nhiều vụ việc doanh nghiệp xuất khẩu đã hoàn toàn chứng minh được sự "trong sạch" và không phải chịu mức thuế phòng vệ thương mại.
Vì vậy, ông James Maeder cho rằng, trước các vụ việc xảy ra, doanh nghiệp xuất khẩu liên quan phải nắm chắc luật pháp quy định của nước điều tra, chủ động nắm bắt tình hình và thực hiện đúng theo yêu cầu thủ tục mà nước sở tại đưa ra.