Thiếu hụt nguồn nước
Theo ông Dương Ngọc Đức, Trưởng Phòng Tổng hợp, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, đến nay vùng Tây Nguyên đã lập một số quy hoạch thủy lợi, phát triển nguồn nước, căn cứ vào quy hoạch nhiều công trình đã được xây dựng nhằm đối phó với những vấn đề trên. Tuy nhiên các quy hoạch này chỉ lập cho từng lưu vực sông riêng lẻ hoặc theo ranh giới hành chính của từng tỉnh, huyện, thời gian lập quy hoạch không đồng nhất và chưa nghiên cứu ứng phó với biến đổi khí hậu.
Sự biến đổi ngày càng bất thường của khí hậu, sự gia tăng các hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đòi hỏi vùng Tây Nguyên phải xây dựng một quy hoạch tổng thể thủy lợi đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, vừa là cơ sở để giải quyết những bài toán phức tạp về vĩ mô trong tương lai, vừa đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội luôn đi đúng hướng, ổn định và bền vững.
Người dân huyện Ia Pa (Gia Lai) chắt chiu từng chai nước lấy từ công trình thủy lợi về để phục vụ sinh hoạt. |
Số liệu quan trắc khí tượng thủy văn khu vực Tây Nguyên chỉ ra rằng, mùa mưa năm 2015 kết thúc sớm, lượng mưa thiếu hụt khoảng 20% so với trung bình nhiều năm (lượng mưa phổ biến ở các khu vực thiếu hụt từ 150 - 200 mm). Đồng thời, từ tháng 12/2015 đến tháng 2/2016, lượng mưa trên toàn vùng giảm khoảng 40% so với cùng kỳ nên mực nước ở hầu hết các hồ chứa xuống thấp hơn mức trung bình nhiều năm từ 15-35% (một số khu vực xuống thấp hơn từ 40 - 60%); trên 35% số sông, suối và 40% số hồ nhỏ kiệt nước.
Nhiều dòng chảy trên các sông chính liên tục thiếu hụt từ 20 - 70%, có nơi trên 90%, đặc biệt trên sông Đắk Bla tại Kon Tum mực nước đạt thấp nhất lịch sử. Nhiều hồ chứa thủy lợi, thủy điện có dung tích chỉ còn 30 - 40% dung tích thiết kế: Tại Kon Tum, dung tích các hồ chứa chỉ đạt 30 - 50% dung tích thiết kế, có 5 hồ đã cạn nước. Tại Gia Lai, các hồ chứa chỉ đạt 10 - 56% dung tích thiết kế, riêng hồ Ia Hrung đã cạn nước. Tại Đắk Lắk, có gần 300 hồ đã cạn nước. Tại Đắk Nông, có 17 hồ chứa và 3 đập dâng cạn nước, 35 hồ mực nước chết.
Mặc dù đến nay, nhiều địa bàn ở Tây Nguyên đã có mưa và tình hình khô hạn bớt khốc liệt, nhưng tính đến tháng 6/2016, toàn vùng đã có 179.589 ha cây trồng bị hạn hán, ước tổng thiệt hại khoảng 5.431 tỷ đồng. Toàn vùng cũng có 69.919 hộ gia đình bị thiếu nước sinh hoạt. Một số địa phương thiếu nước sinh hoạt xảy ra gay gắt, người dân phải mua nước sinh hoạt từ các dịch vụ với giá từ 60.000 - 80.000 đồng/m3. Công tác phòng, chống hạn còn nhiều khó khăn, nhất là hệ thống công trình thủy lợi hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu tưới cho diện tích cây trồng, đặc biệt đối với thời kỳ cuối vụ khi các nguồn nước đã cạn kiệt. Việc nâng cao nhận thức của người dân về sử dụng nước tưới tiết kiệm còn hạn chế; công tác quản lý nguồn nước chưa tốt, sử dụng tài nguyên nước còn lãng phí.
Trước tình trạng hạn hán nghiêm trọng xảy ra, Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lập Đề án thành lập các Ủy ban lưu vực sông và thành lập Ủy ban lưu vực sông Sê San và Sêrêpốk để quản lý và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên nước; giảm tình trạng khan hiếm, thiếu nước về mùa khô và lũ, lụt về mùa mưa, giảm những tác động tiêu cực đến môi trường và những ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của nhân dân; những vấn đề cấp bách trong công tác quản lý tài nguyên nước trên hai lưu vực sông Sê San và Sêrêpốk. Giải quyết các vấn đề thách thức mang tính liên ngành, liên địa phương, thực hiện điều phối, giám sát việc phân bổ, chia sẻ tài nguyên nước đảm bảo nhu cầu khai thác, sử dụng nước và bảo vệ môi trường lưu vực sông cũng như sự phát triển bền vững trên toàn lưu vực.
Đầu tư cho thủy lợi chưa tương xứng
Theo ông Dương Ngọc Đức, do nguồn kinh phí hạn hẹp nên quá trình đầu tư phát triển thủy lợi chưa tương xứng với quá trình phát triển nông nghiệp. Phần lớn là công trình nhỏ tưới từ vài ha đến vài trăm ha và sử dụng chủ yếu nguồn nước cơ bản, do đó hiệu quả tưới bấp bênh, thiếu chủ động nguồn nước. Hệ thống công trình thủy lợi xây dựng đã lâu, không đồng bộ, kênh mương bị bồi lấp, nhiều trạm bơm đã hết hạn sử dụng, thiếu thiết bị thay thế. Hệ thống kênh mương chưa đồng bộ, hệ thống công trình nội đồng còn thiếu dẫn đến tưới tràn lan, nước chảy từ kênh tưới xuống sông suối. Đại bộ phận các công trình do nhà nước và nhân dân cùng làm bị xuống cấp nghiêm trọng, không có khả năng cân đối nguồn vốn để nâng cấp sửa chữa. Đối với các công trình do nhà nước quản lý, việc nguồn vốn cấp ít, không đủ để duy tu bảo dưỡng thường xuyên cũng là một hạn chế lớn trong quá trình khai thác quản lý công trình. Các công trình lớn đã xây dựng trên dòng chính chủ yếu là phát điện và chuyển nước sang lưu vực khác phục vụ yêu cầu phát điện là chính, nhiệm vụ đa mục tiêu còn hạn chế. Các vùng đê chỉ chống lũ tiểu mãn, còn lũ chính vụ cho tràn qua, các đê không có đường tràn chủ động, nên khi nước tràn qua đê dễ bị phá hỏng.
Hiện tại, toàn vùng Tây Nguyên đã xây dựng được 2.354 công trình thủy lợi, trong đó 1.190 hồ chứa, 972 đập dâng, 130 trạm bơm, 62 công trình khác, diện tích tưới thiết kế: 288.484 ha. Diện tích tưới thực tế là: 214.645 ha, đạt 74,4% so với diện tích thiết kế. Tuy nhiên, so với diện tích cần tưới chỉ đạt 27,8%. |
Việc sử dụng và khai thác nguồn nước sẵn có đặt ra những thách thức trong công tác quản lý tài nguyên nước. Tình trạng khan hiếm, thiếu nước về mùa khô và lũ, lụt về mùa mưa ngày càng tăng dẫn đến thiệt hại cho sản xuất, tác động tiêu cực đến môi trường và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Những năm gần đây, ở Tây Nguyên nước lũ xuất hiện bất ngờ và nguy hiểm, mức độ tàn phá khốc liệt hơn. Trong vòng 15 năm trở lại đây đã có 18 trận lũ lớn đến đặc biệt lớn và lũ quét gây ngập lụt trên diện rộng. Hạn hán thường gây ảnh hưởng trên diện rộng, tổn thất do hạn hán gây thiệt hại rất lớn.
Chất lượng nước có xu hướng suy giảm mạnh, một số sông lớn đang bị ô nhiễm nguồn nước do chưa xây hạ tầng xử lý nước thải công nghiệp nên hàng ngày nước thải của các cơ sở sản xuất, chế biến vẫn xả vào đất và đi theo nước ra sông (Srêpốk do khu công nghiệp Hòa Phú, Đắk Lắk; công nghiệp Tâm Thắng, Đắk Nông).
Việc xây dựng các dự án khai thác, sử dụng, chuyển nguồn nước lưu vực sông chưa dựa trên quy hoạch và nguyên tắc quản lý lưu vực sông. Một số ngành dùng nước gần như tự lập quy hoạch và tự quyết định khai thác sử dụng nước, thiếu khách quan khi xác định mục tiêu, cân đối nhu cầu sử dụng và các vấn đề cần giải quyết trong bảo vệ môi trường nước. Theo đó, việc khai thác sử dụng nước trên lưu vực các sông chỉ mới chú trọng tới hiệu quả kinh tế của ngành, địa phương mình chứ chưa quan tâm tới việc bảo đảm nhu cầu nước cho các ngành, địa phương khác và trả lại phần nước cho môi trường.
Sự mất cân đối nguồn nước làm cho sự cạnh tranh trong sử dụng nước giữa các ngành, các hộ đang ngày càng gia tăng. Trong cạnh tranh, các hộ dùng nước lớn, có năng lực tài chính thường chiếm được ưu thế, các hộ dùng nước nhỏ, các cộng đồng dân cư nhỏ lẻ dễ mất quyền sử dụng nước vốn có trước đây. Do đó cần phải có cơ chế và tổ chức phối hợp để điều hành, giám sát việc phân phối, chia sẻ nguồn nước. Việc phân phối, chia sẻ này không chỉ cho các ngành, các địa phương, cộng đồng dân cư trong lưu vực các sông mà còn chia sẻ cho những vùng lân cận.