Dù vậy, vẫn có nhiều tín hiệu khả quan về kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong năm. Nhưng liệu những kết quả này có bền vững và điều gì đang đón chờ ngành ngân hàng trong năm 2022 sắp tới? Xoay quanh nội dung này, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, không ít doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động, người dân mất việc, số còn lại cũng đang rất khó khăn để khôi phục sản xuất kinh doanh. Điều này tác động ra sao đến hoạt động của ngành ngân hàng, thưa ông?
Ngành ngân hàng đóng vai trò là “huyết mạch” của nền kinh tế, vì thế khi nền kinh tế khó khăn do đại dịch COVID-19 thì hoạt động của ngành ngân hàng chắc chắn cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, không như một số ngành nghề, lĩnh vực chịu tác động trực tiếp bởi dịch bệnh COVID-19, tác động của đại dịch này đến các tổ chức tín dụng (TCTD) có độ trễ. Bởi hiện nay ngân hàng đang thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19; Thông tư 03/2021/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 cho phép cơ cấu nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, giữ nguyên nhóm nợ, cho vay mới giảm lãi và phí cho khách hàng... nhằm hỗ trợ khách hàng chưa phải chuyển nhóm nợ được vay mới nếu dự án có hiệu quả và được giảm cũng như vay mới với lãi suất thấp hơn.
Như vậy, toàn bộ dư nợ được cơ cấu là nợ dưới chuẩn khả năng trở thành nợ xấu rất cao. Chưa kể do đứt gãy chuỗi cung ứng, nhiều doanh nghiệp đang nợ nhóm 1 (nợ tiêu chuẩn) với lãi dự thu được hạch toán vào thu nhập song đến thời điểm trả nợ gặp khó khăn, các TCTD sẽ phải loại ra khỏi thu nhập. Lúc đó, ngành ngân hàng sẽ chịu áp lực nợ xấu, trích dự phòng rủi ro, loại dự thu ra khỏi thu nhập. Nếu nhiều doanh nghiệp khó khăn chưa trả được nợ ngân hàng, vòng quay vốn tín dụng thấp có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, vì vậy trong tương lai ngành ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn cần được các doanh nghiệp và cộng đồng chia sẻ.
Tuy nhiên, hiện nay ngành ngân hàng đã và đang tích cực chia sẻ, đồng hành, hỗ trợ nhằm giúp khách hàng, người dân vượt qua khó khăn. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay đã giảm 1% trong năm 2020 và xu hướng giảm lãi suất này vẫn tiếp tục trong hơn nửa năm 2021 với mức giảm khoảng 0,66%/năm. Các TCTD đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 1,9 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ gần 3,79 triệu tỷ đồng. Lũy kế từ 23/01/2020 đến cuối tháng 10/2021, tổng số tiền lãi các TCTD đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng là khoảng 32.600 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các TCTD cũng đã tích cực tham gia các hoạt động ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19, số tiền ước tính lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Tuy ngành ngân hàng đã và sẽ còn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng thời gian qua vẫn ghi nhận lợi nhuận dương. Theo ông, kết quả này nên được hiểu sao cho khách quan?
Theo tôi, vấn đề lợi nhuận ngân hàng cần phải nhìn nhận khách quan ở một số điểm sau:
Thứ nhất, quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thời gian qua nhờ những giải pháp chủ động và cùng với sự hỗ trợ từ Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng do Quốc hội ban hành, đã thu được kết quả tương đối tốt, tỷ lệ nợ xấu đã được đưa về mức cho phép, nhiều khoản nợ đã xử lý rủi ro được hạch toán thu nhập bất thường…, những yếu tố đó góp phần mang lại lợi nhuận cho các TCTD.
Thứ hai, trong quá trình tái cơ cấu, các TCTD đã đầu tư nhiều vào ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, đến nay đã thu về “quả ngọt” khi tiến trình chuyển đổi số của hệ thống ngân hàng diễn ra mạnh mẽ, thanh toán không dùng tiền mặt tăng mạnh, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh người dân hạn chế đi lại, tiếp xúc trực tiếp… Có ngân hàng riêng khoản thu từ dịch vụ chiếm đến 40% lợi nhuận cho thấy công sức của các TCTD nhiều năm qua đã thu về kết quả xứng đáng.
Thứ ba, với việc thanh toán không dùng tiền mặt thông suốt, hiệu quả, nên lượng tiền trong tài khoản thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn) tăng giúp giảm đáng kể chi phí đầu vào của các tổ chức tín dụng. Đây cũng là lý do khiến ngân hàng dù đã giảm lãi cho doanh nghiệp tới hơn 32.600 tỷ đồng mà lợi nhuận vẫn tăng.
Thứ tư, hiện nay các TCTD chưa phải trích dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ cơ cấu theo Thông tư 01, 03, 14, đồng thời còn những khoản dự thu của dư nợ nhóm 1 đã hạch toán vào thu nhập nên nhất thời góp phần làm cho lợi nhuận ngân hàng ghi nhận dương.
Vậy ông dự báo ra sao về lợi nhuận ngành ngân hàng trong năm nay?
Như tôi đã phân tích ở trên, trong năm nay, tình hình lợi nhuận ngân hàng vẫn tương đối khả quan. Tuy nhiên, tôi cho rằng lợi nhuận tại thời điểm này của các ngân hàng là không bền vững. Khoảng 10% lợi nhuận của ngân hàng đang tính trên lãi dự thu, và hiện nay ngân hàng cũng chưa phải trích lập dự phòng rủi ro cho nợ cơ cấu lại (cuối năm nay mới phải trích lập dự phòng 30% đối với dư nợ cơ cấu bởi dịch COVID-19).
Đến năm 2022, những khó khăn bởi đại dịch sẽ ảnh hưởng nặng nề, rõ rệt hơn đến doanh nghiệp, khiến các ngân hàng có nguồn dự thu lớn sẽ bị ảnh hưởng, lợi nhuận của các TCTD sẽ bị giảm.
Mặt khác, đến tháng 8/2022, Nghị quyết 47/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu sẽ hết hiệu lực, nếu lúc đó vẫn chưa có văn bản pháp lý nào thay thế sẽ ảnh hưởng đến hoạt động cũng như kết quả xử lý nợ xấu của các TCTD, làm giảm nguồn thu và gián tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
Điều gì đang đón chờ ngành ngân hàng trong năm 2022 sắp tới, thưa ông?
Theo tôi, triển vọng ngành ngân hàng năm 2022 phụ thuộc rất lớn vào khả năng khống chế dịch bệnh COVID-19 cũng như tốc độ phục hồi của nền kinh tế. Nếu tốc độ phục hồi của nền kinh tế tốt, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng lên, đồng nghĩa với khả năng trả nợ của doanh nghiệp, người dân cao hơn, hoạt động cung ứng vốn cho nền kinh tế, cho vay bán lẻ, tiêu dùng của hệ thống ngân hàng sẽ được tăng cường, chất lượng tài sản cũng như thu nhập của ngân hàng nhờ đó tốt hơn.
Trong trường hợp ngược lại, nếu tốc độ phục hồi của nền kinh tế chậm hoặc thấp hơn dự kiến, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn khó khăn sẽ ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng khi phải tăng trích lập dự phòng nợ xấu, thu nhập từ lãi giảm, gia tăng nợ xấu...
Điểm sáng về triển vọng ngành ngân hàng trong năm tới chính là các khoản thu nhập từ phí (phí dịch vụ, phí bán chéo bancassurance...), đây là một trong những động lực tăng trưởng của ngành ngân hàng thời gian qua tiếp tục sẽ được phát huy trong thời gian tới. Bên cạnh đó, với tốc độ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, các ngân hàng có cơ hội kiểm soát chi phí hoạt động tốt hơn. Cùng với đó là việc nỗ lực nâng cao tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) cũng như tiếp cận các nguồn vốn bán buôn với chi phí rẻ hơn sẽ giúp ngân hàng giảm chi phí vốn. Những yếu tố này sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có được thu nhập tốt hơn.
Ngoài ra, không thể không nhắc tới hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, đặc biệt là các thương vụ M&A của các công ty tài chính tiêu dùng. Trong năm 2021, thị trường đã chứng kiến thương vụ “khủng” bán 49% vốn Công ty FE CREDIT của VPBank cho đối tác SMBC, đem lại khoảng 1,4 tỷ USD cho VPBank. Xu hướng này sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2022, hứa hẹn đem lại nguồn thu lớn cho các ngân hàng sở hữu các công ty tài chính.
Trân trọng cảm ơn ông!
Bài cuối: Thúc đẩy tiến trình hồi phục bằng giải pháp tín dụng