Sau khi vận động không thành công trong cuộc trưng cầu dân ý Brexit năm 2016 để người Anh bỏ phiếu ở lại Liên minh châu Âu, ông Cameron đã từ chức ngay lập tức và rời khỏi chính trường kể từ đó.
Ông thậm chí không phải là một nhà lập pháp. Việc ông trở lại vị trí lãnh đạo cấp cao trong chính phủ với tư cách là thành viên không được bầu chọn từ Hạ viện Anh là điều hiếm gặp và làm dấy lên lo ngại về tính trách nhiệm.
Phát biểu trước phóng viên ngày 13/11, cựu Thủ tướng Cameron nói: “Tôi biết việc một thủ tướng trở lại theo cách này là không theo lẽ thường, nhưng tôi tin vào dịch vụ công”.
Cuộc cải tổ nội các lớn cùng ngày do Thủ tướng Rishi Sunak công bố cho thấy ngoài ông Cameron, một số cựu thủ tướng Anh khác cũng quay trở lại chính phủ nhưng với vai trò thấp hơn. Chỉ có khoảng chục cựu lãnh đạo Anh đi theo con đường này từ những năm 1700.
Cho đến nay, di sản của cựu Thủ tướng Cameron đối với Brexit và các quyết định chính trị khác vẫn còn gây tranh cãi sâu sắc.
Tốt nghiệp đại học danh tiếng Oxford, ông Cameron đã lãnh đạo đảng Bảo thủ trở lại nắm quyền vào năm 2010 sau 13 năm quyền lực rơi vào tay phe đối lập. Ông lãnh đạo nước Anh trong 6 năm. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, đảng của ông đã chia sẻ quyền lực với đảng Dân chủ Tự do trong một liên minh không mấy dễ dàng.
Ông Cameron trở thành lãnh đạo Văn phòng số 10 phố Downing ở tuổi 43 với tư cách là một trong những thủ tướng trẻ nhất trong lịch sử nước Anh. Nhiều nhà quan sát vào thời điểm đó đã so sánh sức hút của ông với cựu Thủ tướng Tony Blair của Công đảng.
Giống ông Blair, ông Cameron nỗ lực lèo lái đảng của mình theo hướng trung lập, ủng hộ “chủ nghĩa bảo thủ nhân ái” nhằm nâng cao uy tín của đảng Bảo thủ.
Nhưng đối với nhiều người, nền kinh tế “thắt lưng buộc bụng” khắc nghiệt và quyết định tổ chức cuộc bỏ phiếu Brexit của ông vẫn là những cột mốc quan trọng trong thời gian ông nắm quyền, với tác động sâu rộng lên xã hội Anh sau này.
Dưới thời Thủ tướng Cameron, chính phủ Anh đã cắt giảm sâu phúc lợi xã hội và các chi tiêu công khác cho y tế và giáo dục sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.
Lời hứa của ông về việc tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về tư cách thành viên EU, một nỗ lực nhằm xoa dịu những người Bảo thủ nổi loạn và xua đuổi đảng Độc lập cánh hữu của Vương quốc Anh, đã đánh dấu sự sụp đổ của ông. Phe “ở lại” EU của ông Cameron đã bị đánh bại, chỉ giành được 48% phiếu bầu so với 52% của phe “rời đi” được sự ủng hộ từ những người theo chủ nghĩa hoài nghi châu Âu, trong đó có cựu Thủ tướng Boris Johnson.
Vương quốc Anh rời EU vào năm 2020 sau một tiến trình hỗn loạn và những tranh cãi thương mại thời hậu Brexit tiếp tục ảnh hưởng đến chính trị ở Bắc Ireland.
Trong nhiệm kỳ của mình, ông Cameron đã dẫn dắt các mối quan hệ kinh tế và thương mại chặt chẽ hơn giữa Anh và Trung Quốc, chủ trì “kỷ nguyên vàng” của quan hệ Trung - Anh khi ông có chuyến thăm cấp nhà nước tới Trung Quốc.
Lập trường của ông hiện bị nhiều người ở Anh, trong đó có Thủ tướng đương nhiệm Sunak, chỉ trích là sai lầm vì ảnh hưởng của Bắc Kinh ngày càng được coi là mối đe dọa đối với an ninh quốc tế. Trong một tuyên bố, ông Cameron thừa nhận ông không đồng tình với nhà lãnh đạo Sunak về một số quyết định nhưng nhấn mạnh rằng ông sẽ ủng hộ ông Sunak khi Vương quốc Anh tiến tới cuộc tổng tuyển cử vào năm tới.
Năm 2013, ông Cameron đã phải chịu thêm một đòn nặng nề về chính sách đối ngoại khi đảng Bảo thủ cùng với phe đối lập bác bỏ kế hoạch can thiệp quân sự của Anh chống Tổng thống Syria Bashar al-Assad.
Giải thích về quyết định bổ nhiệm cựu Thủ tướng Cameron vào chức lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Văn phòng của Thủ tướng Sunak khẳng định ông Cameron là một nhân vật có uy tín trên trường thế giới và có thể đem lại nhiều kinh nghiệm khi đảm đương vị trí này.
Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát coi động thái đưa ông Cameron trở lại của Thủ tướng Sunak là một canh bạc mơ hồ về kết quả.
“Thủ tướng Sunak đang cố gắng tìm kiếm những người khác có thể đại diện cho một mô hình chính phủ êm đềm hơn những gì ông ấy có thể thực hiện. Nhưng có vẻ như ông ấy không tìm được đủ người hợp lý hơn trong đảng của mình. Ông Cameron sẽ được coi là một ngoại trưởng có năng lực và thu hút đối với một số người. Nhưng tôi nghĩ ấn tượng mà quyết định bổ nhiệm mang lại cho thấy một sự bất lực”, Toby Helm, biên tập viên chính trị của tờ The Observer, nhận định.
Bộ trưởng Giao thông Mark Harper, người từng làm việc dưới quyền ông Cameron, nằm trong số những người ca ngợi động thái này.
“Trước những thách thức mà chúng ta phải đối mặt với cuộc chiến ở Ukraine và những gì đang diễn ra ở Trung Đông, tôi nghĩ việc mời một người thực sự có kinh nghiệm đến làm ngoại trưởng là một quyết định tuyệt vời”, ông Harper bày tỏ.
Một số người hoài nghi về trách nhiệm giải trình của ông Cameron vì ông đang đảm nhiệm một công việc hàng đầu trong chính phủ không phải với tư cách là một nhà lập pháp được dân bầu mà lại được bổ nhiệm ở Thượng viện. Việc các ngoại trưởng phục vụ trong Thượng viện là điều bất thường, mặc dù không phải là điều chưa từng xảy ra. Ở vị trí mới, ông Cameron sẽ không phải đối mặt với các cuộc chất vấn thường xuyên tại Hạ viện.
Trong một tuyên bố mới nhất, ông Lindsay Hoyle, Chủ tịch Hạ viện, nói rằng: “Do tình hình quốc tế nghiêm trọng hiện nay, ông đang xem xét các lựa chọn để đảm bảo các nhà lập pháp có thể chất vấn kỹ lưỡng tân Ngoại trưởng Cameron”.