Về vấn đề trên, báo Tin tức xin thông tin như sau:
Khoản 1, Điều 16 của Luật Đất đai 2013 quy định Nhà nước quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau: Thu hồi vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; Thu hồi do vi phạm pháp luật về đất đai; Thu hồi do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
Việc thu hồi đất có bồi thường cho người sử dụng đất là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp thu hồi đều nhận được bồi thường.
Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất là: "Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền". Và, một trong những căn cứ xác định tiền bồi thường về đất là giá đất tính tiền bồi thường (giá đất bồi thường), mà giá đất bồi thường ở thời điểm khác nhau thì khác nhau.
Theo khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 có quy định: Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường cho người sử dụng đất (khoản 1 Điều 93 Luật Đất đai 2013).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật đất đai 2013, trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.