Có tới gần 59% doanh nghiệp có nhu cầu được đào tạo kiến thức về hướng dẫn xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến: ISO 9001, ISO 14001, ISO 17025, HACCP, ISO 22000… vì thế, đa số các doanh nghiệp logistics đều đề xuất cần có bộ tiêu chuẩn quốc gia dành riêng và phù hợp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hay các tiêu chuẩn về khổ đường bộ; tiêu chuẩn về container, tiêu chuẩn cụ thể cho hàng nguy hiểm, tiêu chuẩn cho các phương tiện giao thông sử dụng năng lượng điện…
Ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch VLA cho hay, vài năm gần đây, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam đã và đang triển khai xây dựng bộ tiêu chuẩn nghề OS/OSS cho các vị trí công việc trong ngành logistics và nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn công việc “Chuyên viên làm hàng nguy hiểm”, dự kiến sẽ ra mắt cộng đồng trong tháng 4. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho quá trình đào tạo, tuyển dụng và phát triển nhân viên của ngành logistics.
Theo đánh giá của đại diện Ngân hàng Thế giới (WB), trong những năm qua, các chỉ số logistics của Việt Nam liên quan đến hải quan, hạ tầng, vận tải quốc tế, năng lực logistics, theo dõi và truy xuất hàng cũng như thời gian thực hiện dịch vụ logistics đều được cải thiện tích cực. Điều này càng minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ hơn của ngành logistics Việt Nam. Hiện nay, WB đang sử dụng thang đo Chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) để đo lường một cách toàn diện năng lực logistics. Năm 2018, chỉ số LPI của Việt Nam đã có sự cải thiện, từ đứng thứ 5 trong 10 nước ASEAN với 2,96 điểm đã vươn lên đứng thứ 3 (đứng sau Singapore và Thái Lan) với 3,27 điểm.
Tiến tới năm 2025, ngành logistics Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu, đạt tỷ trọng đóng góp của ngành vào GDP khoảng 5% - 6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15% - 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% - 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% - 20% GDP, xếp hạng theo Chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.
Để đạt được các mục tiêu này, ngành logistics đòi hỏi cần phải đưa ra các quy định về quy chuẩn và tiêu chuẩn chất lượng nhằm giữ vai trò quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng dịch vụ logistics, đảm bảo chất lượng hàng hóa, dịch vụ và đảm bảo hàng hóa được lưu thông dễ dàng. Việc các quy chuẩn, tiêu chuẩn có tính tương đồng cao với các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế góp phần tạo thuận lợi sự lưu thông hàng hóa dễ dàng trên thị trường xuất nhập khẩu.
Tiêu chuẩn hóa giúp cho doanh nghiệp cắt giảm chi phí thông qua việc cải thiện hệ thống logistics của doanh nghiệp và các quá trình làm tăng khả năng cạnh tranh cho chuỗi logistics, qua đó tăng sự hài lòng của khách hàng thông qua việc cải thiện sự an toàn, chất lượng và quá trình logistics. Từ đó cho thấy, việc chuẩn hóa nguồn nhân lực cũng rất cần thiết. Việc đánh giá nhân viên là việc làm không thể thiếu của doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý đội ngũ nhân viên trong quá trình làm việc.
Trước thực tiễn ấy, người đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việc Nam cho rằng, các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần đầu tư hoàn thiện mô hình quản lý chất lượng dịch vụ logistics nhằm giúp các khâu trong quá trình thực hiện dịch vụ diễn ra một cách đơn giản và đảm bảo hơn. Ngoài việc lựa chọn áp dụng mô hình quản lý chất lượng tiên tiến của thế giới như ISO, SERQUAL hay TQM,… các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần hoàn thiện chức năng tổ chức, kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh; trong đó, doanh nghiệp cần phải làm cho nhân viên thực hiện kế hoạch biết rõ mục tiêu, sự cần thiết và nội dung công việc mà mình phải làm.
Cùng với xu thế phát triển của ngành logistics và thời đại của công nghiệp 4.0, các dịch vụ logistics đổi mới gia tăng, đòi hỏi cao hơn về chất lượng nguồn nhân lực. Việc chuẩn hóa từ khâu đào tạo - tuyển dụng - sử dụng lao động sẽ tránh được lãng phí cho xã hội, giúp cho việc sử dụng lao động hiệu quả hơn. Chính vì vậy, việc xây dựng Bộ tiêu chuẩn nghề là cần thiết và cần có sự tham gia và ủng hộ nhiệt tình từ các bên liên quan Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp.