Theo đó, 5 tháng đầu năm 2022, tỉnh đã thả nuôi tôm nước lợ hơn 128.860 ha, đạt 91,5% kế hoạch, tập trung ở các huyện Gò Quao, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận, An Minh, An Biên, Hòn Đất, Kiên Lương, Giang Thành và thành phố Hà Tiên, gồm: Nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp, nuôi quảng canh – quảng canh cải tiến và tôm – lúa. Sản lượng tôm thu hoạch hơn 38.690 tấn, đạt 35,6% kế hoạch, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2021.
Nuôi tôm nước lợ ở tỉnh Kiên Giang những tháng đầu năm nay khá thuận lợi về môi trường, thời tiết khí hậu, dịch bệnh xuất hiện gây hại tôm nuôi không đáng kể và nhất là tôm có giá khá cao trên thị trường, nông dân phấn khởi. Hiện nay, tôm sú (30 con/kg) giá 200.000 – 210.000 đồng/kg, tôm thẻ (100 con/kg) giá 105.000 – 110.000 đồng/kg, tôm càng xanh trên dưới 100.000 đồng/kg.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, tỉnh quy hoạch diện tích nuôi tôm nước lợ đến năm 2030 khoảng 145.440 ha, với 3 loại hình nuôi công nghiệp – bán công nghiệp, nuôi quảng canh – quảng canh cải tiến và tôm – lúa; sản lượng 159.345 tấn. Tỉnh phấn đấu 100% vùng nuôi tôm tập trung được kiểm soát môi trường, dịch bệnh và an toàn thực phẩm.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang Quảng Trọng Thao cho biết, tỉnh nuôi tôm nước lợ tập trung tại các huyện vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng U Minh Thượng và Gò Quao với những loại hình khác nhau, phù hợp từng vùng sinh thái, thích ứng biến đổi khí hậu. Đối với diện tích đất trồng lúa bị ảnh hưởng xâm nhập mặn trong năm từ 3 tháng trở lên chuyển sang phát triển sản xuất tôm – lúa. Mặt khác, chuyển một phần diện tích nuôi tôm quảng canh – quảng canh cải tiến kém hiệu quả sang nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp, với tổng diện tích chuyển đổi khoảng 20.000 – 25.000 ha.
Cụ thể, tỉnh nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp hơn 6.370 ha ở các huyện vùng Tứ giác Long Xuyên, một phần các huyện vùng U Minh Thượng. Ngành thủy sản xây dựng vùng nuôi tôm tập trung ứng dụng công nghệ cao, chú trọng đầu tư hoàn thiện hạ tầng thủy lợi đáp ứng nguồn nước phục vụ sản xuất.
Tiếp đến, nuôi tôm – lúa ở các huyện vùng U Minh Thượng và Gò Quao, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, các hình thức liên kết sản xuất theo hướng phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, những diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả do ảnh hưởng xâm nhập mặn chuyển đổi sang mô hình tôm – lúa. Ngoài ra, trên những vùng sinh thái này còn tập trung phát triển nuôi tôm càng xanh trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật, công nghệ nuôi mới vào sản xuất và thu hoạch sản phẩm, tổ chức liên kết việc tiêu thụ sản phẩm tôm thu hoạch.
Cùng với đó, nuôi tôm quảng canh – quảng canh cải tiến phát triển ở các huyện, thành phố ven biển, nơi có nguồn nước mặn và điều kiện nuôi phù hợp với các mô hình chuyên tôm, tôm – rừng, tôm – cua – cá, tôm – sò…
Phát triển nuôi tôm theo hướng sản xuất hàng hóa, an toàn, bền vững và hiệu quả, ngành Thủy sản tỉnh tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ con giống, vật tư đầu vào, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm; trong đó, doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu đóng vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi sản xuất. Ngành thủy sản tỉnh thành lập và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất như: Tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp gắn với liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các vùng nuôi tôm nước lợ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, trong phát triển nuôi tôm nước lợ, tỉnh chú trọng đầu tư phát triển mạnh nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp. Phát triển loại hình nuôi này ứng dụng công nghệ mới, năng suất cao, tiết kiểm nước, giảm giá thành sản xuất, bảo vệ môi trường và an toàn dịch bệnh. Tỉnh xây dựng, hình thành các vùng nuôi tôm công nghệ cao tại các huyện Giang Thành, Kiên Lương và thành phố Hà Tiên. Tỉnh hỗ trợ xây dựng hoàn thiện khu phức hợp sản xuất tôm ứng dụng công nghệ cao, khép kín toàn chuỗi giá trị, cung ứng đủ các dịch vụ tại chỗ như: Tài chính, lao động, công nghệ, kho bãi, vật tư, nhà máy chế biến, sàn giao dịch, kiểm soát và chứng nhận chất lượng sản phẩm tại huyện Kiên Lương.
Bên cạnh đó, ngành thủy sản tỉnh liên kết, kết nối với các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh, các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học, công nghệ dể nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ trong phát triển nuôi tôm. Phát triển mạnh mô hình nuôi tôm theo tiêu chuẩn VietGAP, nuôi tôm sinh thái và các tiêu chuẩn quốc tế khác theo yêu cầu thị trường xuất khẩu; sử dụng mã vạch, mã số truy xuất nguồn gốc sản phẩm nuôi, vùng nuôi. Ngành thủy sản từng bước đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý sản phẩm tôm nuôi đặc trưng từng vùng sinh thái trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra, tỉnh tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng, nhất là hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, giao thông, lưới điện phục vụ nuôi trồng thủy sản các vùng trọng điểm Tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Ngành chức năng tăng cường quan trắc, cảnh báo môi trường, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường vùng nuôi tôm; đồng thời, nâng cao năng lực quản lý, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển nuôi tôm về số lượng và chất lượng.
Trước mắt, tỉnh tập trung thực hiện hiệu quả chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo nguồn nhân lực phục vụ nuôi tôm tại địa phương, chú trọng đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác… Tỉnh đầu tư chế biến, xuất khẩu thủy sản gắn với xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh tế ngoại thương, chế biến xuất khẩu. Hiện, tỉnh Kiên Giang quy hoạch cụm công nghiệp chuyên ngành chế biến thủy sản quy mô 30 ha tại xã Bình An, huyện Châu Thành. Các ngành chức năng hữu quan của tỉnh đang tập trung triển khai đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp này.