Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, hơn 2 năm qua là thời gian thử thách chưa từng có với mọi quốc gia trên thế giới; trong đó, có Việt Nam bởi đại dịch COVID-19. Thế nhưng, Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những kết quả tích cực, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực.
Đặc biệt, trong năm 2021 hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá với kim ngạch lần đầu tiên đạt mức 670 tỷ USD, tăng 23% so với năm trước, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế; trong đó, xuất khẩu có sự bứt phá ngoạn mục, tăng trên 19% (vượt 15% so với kế hoạch), duy trì xuất siêu năm thứ 6 liên tiếp với mức thặng dư trên 4 tỷ USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Những thành tích này đều sự đóng góp quan trọng, tích cực của hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc tận dụng tốt các thời cơ, thuận lợi từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 FTA với hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, trở thành một trong những nước đi đầu khu vực tham gia các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương; trong đó, gần đây nhất là Hiệp định RCEP.
Đây là Hiệp định thương mại tự do được 10 nước thành viên ASEAN và 5 nước đối tác là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia và New Zealand ký kết vào ngày 15/11/2020, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.
Hiệp định này là sự kết nối 4 FTA hiện hành giữa ASEAN và các nước đối tác thành 1 FTA lớn nhất thế giới, chiếm gần 1/3 dân số thế giới và GDP toàn cầu.
Do vậy, việc đưa Hiệp định RCEP với một quy tắc xuất xứ chung áp dụng cho 15 nước vào thực thi được kỳ vọng sẽ tạo ra những cơ hội lớn cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phát triển các chuỗi cung ứng mới, đồng thời mở ra một không gian sản xuất chung và một "siêu" thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài trong khu vực.
Bởi các nước tham gia Hiệp định RCEP có nhiều nước được xem như là nơi sở hữu, cung ứng nguyên liệu, vật tư chiến lược lớn của thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước ASEAN và là các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm trên 1/2 tổng kim ngạch thương mại của cả nước.
"Đây sẽ là những điều kiện quan trọng, tạo thuận lợi cho các ngành hàng, doanh nghiệp Việt Nam đa dạng và tối ưu hóa nguồn nguyên liệu đầu vào để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời tạo thuận lợi hóa thương mại, thúc đẩy xuất khẩu, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước" - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Sau khi được thực thi đầy đủ, Hiệp định RCEP sẽ tạo thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 1/3 dân số thế giới và GDP toàn cầu. Những cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là việc áp dụng một quy tắc xuất xứ chung cho 15 nước trong Hiệp định sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng mới trong Khu vực mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia.
Đồng thời, Hiệp định RCEP cũng tạo lập một không gian sản xuất chung và mở ra một "siêu" thị trường xuất khẩu quy mô lớn, ổn định, lâu dài cho các doanh nghiệp trong nước, nhất là đối với ngành nông nghiệp, bởi Khu vực này có 3 trong 4 thị trường xuất khẩu nông sản hàng đầu của Việt Nam và đang còn rất nhiều dư địa để phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, cũng có nhiều khó khăn, thách thức đặt ra vì các nền kinh tế trong Khu vực đều có năng lực cạnh tranh khá cao, kể cả ở những lĩnh vực mà nước ta có thế mạnh.
Hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam sẽ bị sức ép cạnh tranh rất lớn, nhất là trong bối cảnh Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu từ bên ngoài.
Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần chủ động thích ứng, nỗ lực chinh phục, biến thách thức thành cơ hội để cạnh tranh thành công ở cả thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Chia sẻ những khó khăn thách thức từ Hiệp định RCEP, dưới góc độ doanh nghiệp, ông Đặng Phúc Nguyên- Tổng thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam cho hay, khác với các FTA khác, mặt hàng rau quả khi xuất hay nhập khẩu giữa các nước thành viên trong Hiệp định RCEP với nhau đều phải có quota hoặc thông qua nghị định thư được ký kết trước.
Chẳng hạn như với thị trường Trung Quốc, Việt Nam chỉ được phép xuất khẩu chính ngạch chỉ 10 mặt hàng rau quả như thanh long, xoài, mít, chôm chôm,vải, măng cụt, dưa hấu, chuối, nhãn và thạch đen. Các mặt hàng rau quả khác đang phải trải qua đàm phán lâu mới được phép xuất khẩu như sầu riêng, chanh leo, khoai lang, chanh, bưởi , bơ....
Theo ông Đặng Phúc Nguyên, từ tháng 1/2022 đến nay, Trung Quốc đã thực hiện chính sách kiểm tra "Zero COVID" nghiêm ngặt với hàng thực phẩm nông sản rau quả của tất cả các nước khi xuất khẩu cho Trung Quốc; trong đó, có của Việt Nam trên tất cả phương tiện đường bộ, đường sắt cũng như đường biển.
Điều nay đã gây ách tắc, thậm chí có lúc hàng hóa rau quả Việt Nam bị ứ đọng ở các cửa khẩu dẫn đến nhiều hư hỏng gây thiệt hại cho doanh nghiệp và nông dân sản xuất của Việt Nam.
Bà Trần Thị Lan Anh - Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định, thời gian qua, mặc dù bị tác động bởi dịch COVID-19 nhưng xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng ấn tượng; trong đó, phải kể đến những FTA thế hệ mới và đặc biệt quan tâm tới Hiệp định RCEP.
Theo bà Trần Thị Lan Anh, với các doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp định có tác động lớn hơn thế bởi các đối tác RCEP là nguồn cung của khoảng 70% nhập khẩu, là thị trường đầu ra của gần 40% xuất khẩu Việt Nam. Đây cũng là khu vực bao trùm nhiều chuỗi giá trị toàn cầu và các nguồn FDI lớn nhất của nền kinh tế.
Vì vậy, Hiệp định này được kỳ vọng là sẽ mở ra những cơ hội hội nhập cho các doanh nghiệp. Mặt khác, với nhiều đối tác có cơ cấu kinh tế cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam, RCEP cũng đặt ra các thách thức cạnh tranh không nhỏ cho doanh nghiệp.
Trong so sánh với 14 FTA mà Việt Nam đang thực hiện trước đó, Hiệp định RCEP đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước thách thức cạnh tranh với cùng lúc nhiều đối thủ mạnh nhất.
Nhiều nền kinh tế trong RCEP có cơ cấu tương tự Việt Nam, trong khi kinh nghiệm, nguồn vốn và sức cạnh tranh lại tốt hơn. Thách thức từ Hiệp định này với các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ ở thị trường trong nước mà còn cả ở các thị trường xuất khẩu.
Trên thị trường nội địa, với các cam kết mở cửa trong RCEP, hàng hóa tương tự từ các thành viên RCEP, nhất là từ Trung Quốc và ASEAN sẽ có thêm cơ hội ưu đãi thuế khi nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh ngay trên sân nhà với các doanh nghiệp Việt Nam được dự báo là sẽ gay gắt và khó khăn hơn.
Để vượt qua những khó khăn này, bà Trần Thị Lan Anh khuyến cáo doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu kỹ các cam kết của hiệp định để tận dụng tối đa các cơ hội từ RCEP hay xử lý các thách thức nếu xảy ra. Ngoài ra, doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh để có đủ nền tảng và sức mạnh để cạnh tranh trong hoàn cảnh hội nhập.