Phóng viên TTXVN tại Quảng Trị thực hiện chùm 3 bài viết thể hiện sự chung tay của chính quyền địa phương và người dân cùng bảo vệ rừng, bảo vệ động vật hoang dã, phát triển kinh tế dưới tán rừng để phát triển rừng một cách bền vững.
Người dân xã Kim Ngân cùng cán bộ Trạm bảo vệ cơ động (Ban Quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong) tuần tra, bảo vệ rừng.
Bài 1: Phát triển sinh kế xanh
Tại tỉnh Quảng Trị, việc cộng đồng chung tay bảo vệ rừng là tất yếu và cần thiết nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thiên tai và nguy cơ cháy rừng ngày càng gia tăng. Sự chung tay của cộng đồng địa phương có ý nghĩa rất lớn để rừng phát triển bền vững nhưng từ rừng cũng tạo nguồn thu nhập và sinh kế bền vững cho người dân địa phương.
Thay đổi nhận thức đến hành động
Từ nhiều năm trước, anh Hồ Văn Ninh, bản Cồn Cùng (xã Kim Ngân, tỉnh QuảngTrị) từng là người tham gia khai thác rừng trái phép do thiếu sinh kế ổn định. Tuy nhiên, sau khi được tuyên truyền, vận động và giao khoán bảo vệ rừng, anh đã thay đổi nhận thức. Từ năm 2024, anh bắt đầu nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng tại khu vực bản Hà Lẹc - vùng đệm của Khu Dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong. Hai năm qua, anh đã gắn trách nhiệm của mình với những cánh rừng nguyên sinh.
Anh Hồ Văn Ninh chia sẻ, công việc nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng đã mang lại cho anh thu nhập ổn định khoảng 3 triệu đồng/quý, góp phần đáng kể để anh nuôi sống gia đình 4 người. Hiện tại, nhóm cộng đồng do anh Ninh tham gia hiện có 65 thành viên, cùng nhau nhận khoán và quản lý diện tích rừng rất lớn tại vùng đệm.
Còn với anh Đinh Viết Hoàng bản Hà Lẹc (xã Kim Ngân, tỉnh Quảng Trị), những lần tuần tra kéo dài từ 5 - 7 ngày sâu trong những cánh rừng già đã không còn quá xa lạ. Mỗi chuyến đi, anh cùng lực lượng Kiểm lâm địa phương, cán bộ Khu Dự trữ Thiên nhiên Động Châu - Khe Nước đã băng rừng từ 10 - 20 km/ngày, do đó cả tổ phải mang theo cơm nắm, ăn ngủ trong rừng với nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra tình trạng xâm hại rừng, phá rừng và tháo gỡ bẫy thú rừng nếu phát hiện.
“Qua thời gian gắn bó với công việc chăm sóc và bảo vệ rừng, nhận thức của tôi đã thay đổi rõ rệt, từ chỗ chỉ xem rừng là nguồn khai thác, nay tôi đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm bảo vệ rừng, coi đây là tài sản quý báu cần gìn giữ cho cộng đồng và thế hệ sau. Khi chăm sóc, bảo vệ rừng, người dân cũng có sinh kế, thu nhập ổn định, từ đó người dân có niềm tin hơn để gắn bố với rừng”, anh Đinh Viết Hoàng chia sẻ.
Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong có diện tích rừng tự nhiên được giao khoán cho cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số 6 bản vùng đệm thuộc xã Kim Ngân bảo vệ là 9.280 ha. Để có những cánh rừng xanh ngắt như hôm nay, việc tuyên truyền, thay đổi nhận thức của cộng đồng người dân đã được chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm.
Ông Hà văn Bồn, Trạm trưởng Trạm bảo vệ cơ động (Ban Quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong) cho biết, trạm hiện chỉ có 5 cán bộ, nếu không có sự chung tay nhận khoán, bảo vệ rừng của người dân sẽ khó có thể bao quát hết địa bàn. Trạm đã tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền, đến tận gia đình để vận động bà con nhân dân nhận khoán chăm sóc và bảo vệ rừng, từ đó người dân hiểu dần về lợi ích, thay đổi nhận thức, gắn trách nhiệm của mình với bảo vệ rừng.
Theo ông Hà Văn Bồn, cùng với việc tuyên truyền, nâng cao cộng đồng dân cư, chúng tôi đặc biệt chú trọng nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng cho cán bộ chủ chốt ở cộng đồng thôn, xã; lực lượng an ninh, dân quân cơ động để họ trở thành lực lượng nồng cốt, trong quản lý bảo vệ rừng.
Tạo sinh kế bền vững
Người dân bản Hà Lẹc (xã Kim Ngân, tỉnh Quảng Trị) vui mừng nhận tiền hỗ trợ giảm phát thải khí nhà kính và tiền nhận khoán, chăm sóc bảo vệ rừng.
Ghi nhận vào một ngày cuối tháng 7/2025, tại Nhà văn hóa bản Hà Lẹc (xã Kim Ngân), không khí ngày phát tiền hàng quý từ nguồn bán tín chỉ carbon diễn ra nhộn nhịp và đầy háo hức. Ngay từ sáng sớm, 65 hộ dân trong bản đã có mặt, xếp hàng trật tự, chờ đến lượt mình để nhận khoản tiền công từ việc nhận khoán chăm sóc và bảo vệ rừng. Những ánh mắt rạng rỡ, nụ cười tươi hiện rõ trên khuôn mặt của bà con khi cầm trên tay số tiền xứng đáng với công sức đã bỏ ra trong suốt thời gian tuần tra, giữ gìn rừng xanh.
Bà Hồ Thì Phin, bản Hà Lẹc xã Kim Ngân (tỉnh Quảng Trị) phấn khởi cho biết, từ tiền khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, tiền hỗ trợ giảm phát thải khí nhà kính, gia đình bà đã tái đầu tư và hiện có đàn gà gần 100 con, đàn ngan 30 con và 3 con lợn thịt. Từ đó đời sống kinh tế của người dân đã dần ổn định. Không chỉ gia đình bà, kinh tế nhiều gia đình khác cũng bớt vất vả, khó khăn hơn từ các nguồn hỗ trợ chăm sóc, bảo vệ rừng.
Ông Đặng Văn Dương, Chủ tịch UBND xã Kim Ngân (Quảng Trị) cho biết, hiện diện tích rừng tự nhiên của địa phương rất lớn sau khi nhập ba xã miền núi Kim Thủy, Lâm Thủy và Ngân Thủy. Tuy nhiên, thời gian qua, tại địa phương không xảy ra tình trạng phá rừng, khai thác rừng trái phép, cháy rừng trên diện tích rừng người dân địa phương nhận khoán chăm sóc, bảo vệ.
Bên cạnh đó, các mô hình sinh kế dưới tán rừng cũng được người dân khai thác hiệu quả như: nuôi ong lấy mật, trồng cây dược liệu dưới tán rừng, phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng… Đặc biệt, từ nguồn hỗ trợ giảm phát thải khí nhà kính hay nguồn tiền nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, chính quyền địa phương đã tích cực vận động và đồng hành cùng bà con trong việc tái sản xuất để tạo dựng sinh kế bền vững với các mô hình kinh tế phù hợp.
Ông Bạch Thanh Hải, Giám đốc Ban Quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong cho biết, tại Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong, diện tích rừng được chi trả giảm phát thải khí nhà kính là gần 29.000 ha với số tiền là hơn 10 tỷ đồng. Trong số đó, chi trả trực tiếp 7 tỷ đồng cho 540 hộ dân thuộc 6 bản biên giới của xã Kim Ngân. Từ những nguồn hỗ trợ này, người dân đã dần nhận thức được tầm quan trọng của rừng, lợi ích của rừng mang lại. Đây không chỉ là nguồn hỗ trợ về kinh tế, tạo động lực về tinh thần mà còn là sự ghi nhận sự chung tay bảo vệ rừng của người dân.
Tại tỉnh Quảng Trị, đến ngày 30/6, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng đã giải ngân đến các chủ rừng hơn 328,7 tỷ đồng (đạt 90,2%). Kinh phí tiếp nhận từ nguồn chi trả giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) đã giúp 121 chủ rừng nâng cao hiệu quả việc bảo vệ và phát triển rừng, góp phần cải thiện sinh kế cho hơn 11.900 hộ gia đình.
Xây dựng chuỗi liên kết
Người dân xã Kim Ngân cùng cán bộ Trạm bảo vệ cơ động (Ban Quản lý Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu - Khe Nước Trong) tuần tra bảo vệ rừng.
Ông Nguyễn Văn Duẫn, Phó Chi Cục trưởng Chi Cục kiểm lâm tỉnh Quảng Trị cho biết, hàng năm tỉnh Quảng Trị trồng bình quân 22,6 nghìn ha rừng, khai thác rừng trồng đạt 2 triệu m3 gỗ/năm; kinh phí từ các chương trình, dự án hỗ trợ cho việc bảo vệ rừng năm 2025 đạt trên 354,4 tỷ đồng. Việc phát triển rừng trồng gắn với bảo vệ tốt diện tích rừng tự nhiên hiện được tỉnh xác định là nhiệm vụ quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là địa bàn các xã vùng sâu, vùng xa, đồng thời đảm bảo việc phát triển rừng bền vững.
Tỉnh Quảng Trị đang tận dụng tối đa các chương trình, dự án để hỗ trợ người dân trồng rừng thâm canh gỗ lớn bằng giống chất lượng cao (giống nuôi cấy mô); đến nay toàn tỉnh có trên 24 nghìn ha rừng gỗ lớn. Đặc biệt, xúc tiến hình thành các chuỗi liên kết trong trồng rừng, tiêu thụ rừng trồng giữa doanh nghiệp và người dân, hình thành các vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng tập trung.
Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị cho biết, việc xây dựng chuỗi liên kết trồng rừng vẫn gặp nhiều khó khăn khi quy mô sản xuất của hộ dân còn nhỏ lẻ, manh mún, dẫn đến khó áp dụng đồng bộ quy trình kỹ thuật và đáp ứng tiêu chuẩn nguyên liệu. Nguồn vốn đầu tư cho trồng rừng gỗ lớn còn hạn chế, trong khi chu kỳ khai thác dài khiến người dân ngại tham gia. Bên cạnh đó, mối liên kết giữa doanh nghiệp và người trồng rừng chưa thật sự bền chặt, hợp đồng bao tiêu chưa phổ biến, tiềm ẩn rủi ro về giá cả và thị trường tiêu thụ.
Theo ông Trần Quốc Tuấn, thông qua các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật và vốn đầu tư, tỉnh Quảng Trị hướng tới xây dựng những vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng tập trung, quy mô lớn, đáp ứng tiêu chuẩn chế biến sâu và xuất khẩu; đồng thời xúc tiến kêu gọi đầu tư các nhà máy chế biến gỗ tinh sau để thực hiện việc liên kết. Mô hình này không chỉ giúp nâng cao giá trị kinh tế của gỗ rừng trồng, tạo thu nhập ổn định cho người dân mà còn góp phần phát triển ngành lâm nghiệp bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Trị cũng chỉ đạo xây dựng phương án quản lý rừng trồng bền vững và cấp chứng chỉ rừng trồng nhằm nâng cao giá trị gia tăng của gỗ rừng trồng. Đến nay, toàn tỉnh Quảng Trị có 37,7 nghìn ha rừng trồng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững và dự kiến đến hết năm 2025 là 47 nghìn ha rừng trồng được cấp chứng chỉ.
“Thời gian tới, tỉnh Quảng Trị chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh việc cấp chứng chỉ rừng trồng (FSC) cho vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế, giúp gỗ rừng trồng của Quảng Trị có lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, mở rộng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp chế biến gỗ trong và ngoài nước. Đây là bước đi quan trọng để lâm nghiệp Quảng Trị phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững”, ông Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh.
Bài 2: Bảo tồn đa dạng sinh học