Doanh nghiệp lúa gạo theo sát động thái từ các nhà nhập khẩu

Giá lúa gạo trong nước tuần qua không có nhiều biến động khi chỉ còn rất ít diện tích thu hoạch của vụ Thu Đông và Mùa. Riêng giá gạo xuất khẩu có biến động giảm nhẹ. Các thương nhân đang theo dõi sát động thái từ các nhà nhập khẩu lúa gạo.

Chú thích ảnh
Bốc xếp gạo Việt Nam xuất khẩu. Ảnh minh họa: TTXVN

Về xuất khẩu, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 360-365 USD/tấn vào ngày 24/12, giảm so với mức từ 370-375 USD/tấn của một tuần trước đó. Theo các thương nhân, đây là mức giá thấp nhất kể từ ngày 27/11.

Các thương nhân cũng đang theo dõi sát động thái từ Indonesia, khi Tổng thống nước này vừa thông báo lệnh cấm nhập khẩu gạo với lý do nguồn cung trong nước đã dồi dào. Tuy nhiên, các nhà giao dịch nhận định tác động từ quyết định này sẽ không lớn, bởi lượng gạo Việt Nam xuất sang Indonesia trong năm nay vốn không đáng kể.

Theo thống kê Cục Hải quan, lũy kế xuất khẩu gạo Việt Nam đến 15/12 đạt 7,671 triệu tấn, trị giá 3,923 tỷ USD.

Tại thị trường trong nước, theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tại Cần Thơ, lúa Jasmine vẫn có giá là 8.400 đồng/kg, tương đương so với tuần trước; lúa IR 5451 là 6.200 đồng/kg; ST25 là 9.400 đồng/kg; OM 18 là 6.600 đồng/kg.

Tại Đồng Tháp, lúa IR 50404 có giá 6.800 đồng/kg; OM 18 vẫn là 6.900 đồng/kg. Tại Vĩnh Long, lúa OM 5451 có giá 6.300 đồng/kg và OM 4900 là 7.000 đồng/kg.

Tại An Giang, giá các loại lúa tươi hầu hết vẫn giữ vững so với tuần trước, OM 18 ở mức 6.500 – 6.700 đồng/kg; Đài Thơm 8 từ 6.500 – 6.700 đồng/kg; OM 5451 từ 5.800–6.000 đồng/kg; riêng IR 50404 được thu mua 5.500–5.600 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg.

Tính đến ngày 22/12, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, vụ Đông Xuân 2025–2026, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống được 446.000 ha, tương đương 35,2% trong tổng kế hoạch 1,266 triệu ha. 

Trên thị trường bán lẻ An Giang, giá gạo ổn định: gạo thường 11.500–12.000 đồng/kg; gạo thơm thái 20.000–22.000 đồng/kg; Jasmine 16.000–18.000 đồng/kg; gạo trắng 16.000 đồng/kg, Nàng Hoa 21.000 đồng/kg, Hương Lài 22.000 đồng/kg, thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg, Sóc thường 17.000 đồng/kg, Sóc Thái 20.000 đồng/kg, gạo Nhật 22.000 đồng/kg.

Giá gạo nguyên liệu IR 50404 vẫn ở mức từ 7.600 – 7.700 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500 – 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.200 – 7.300 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở mức 8.800 - 9.000 đồng/kg.

Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ  7.500 – 10.000 đồng/kg; giá cám khô ở mức 9.000 – 10.000 đồng/kg.

Cũng chung xu hướng giảm, tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm được niêm yết ở mức 410 USD/tấn, giảm so với mức 415 USD/tấn của tuần trước. Các thương nhân cho rằng việc giá giảm một phần do sự mạnh lên của đồng baht, cùng với đó là nguồn cung ổn định nhưng nhu cầu lại khá trầm lắng vào dịp cuối năm.

Một thương nhân tại Bangkok cho biết một số nhà xuất khẩu đang hướng tới việc chốt các hợp đồng với các thị trường như Philippines vào đầu năm 2026.

Ở chiều ngược lại, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ leo lên mức cao nhất trong một tháng. Giá gạo Ấn Độ tăng lên do các thương nhân điều chỉnh giá để thích ứng với đà phục hồi của đồng rupee. Mặc dù đồng tiền này đã chạm mức thấp kỷ lục so với đồng USD vào tuần trước, nhưng đã phục hồi mạnh mẽ trong tuần này, làm giảm lợi nhuận quy đổi từ doanh thu xuất khẩu của các thương nhân.

Giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức từ 350-357 USD/tấn, tăng so với mức từ 348-356 USD/tấn của tuần trước. Đây là mức giá cao nhất kể từ ngày 20/11. Trong khi đó, gạo trắng 5% tấm của nước này được chào bán từ 347 đến 352 USD/tấn.

Một nhà xuất khẩu tại Kolkata cho biết biến động tỷ giá buộc họ phải nâng giá xuất khẩu để đảm bảo lợi nhuận.

Liên quan đến tình hình an ninh lương thực khu vực, Bangladesh vừa phê duyệt nhập khẩu 50.000 tấn gạo trắng từ Pakistan thông qua thỏa thuận liên chính phủ (G2G). Các quan chức nước này ngày 23/12 cho biết đây là một phần trong nỗ lực nhằm bình ổn giá cả trong nước.

Về thị trường nông sản Mỹ: Chốt phiên giao dịch ngày 26/12 (theo giờ Mỹ), giá lúa mỳ giao kỳ hạn tại Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đã quay đầu giảm, chấm dứt chuỗi 5 phiên tăng liên tiếp. Tâm lý thận trọng bao trùm thị trường khi giới đầu tư dồn sự chú ý vào các nỗ lực hòa bình giữa Nga và Ukraine.

Cụ thể, giá lúa mỳ giao tháng 3/2026 giảm 0,5%, chốt phiên ở mức 5,19 USD/bushel. Thị trường đậu tương và ngô cũng giảm trong bối cảnh giao dịch thưa thớt sau kỳ nghỉ lễ Giáng sinh. Giá đậu tương giao tháng 1/2026 giảm 0,4%, xuống còn 10,5875 USD/bushel. Giá ngô giao tháng 3/2026 giảm 0,2% xuống 4,50 USD/bushel.

Mặc dù giá lúa mỳ đã được hỗ trợ trong những ngày qua do các cuộc tấn công cơ sở hạ tầng lẫn nhau giữa Nga và Ukraine, song đà tăng này đã bị chặn lại trước thông tin về cuộc gặp cấp cao sắp tới.

Chuyên gia phân tích hàng hóa Austin Schroeder (Barchart) nhận định, giá lúa mỳ giảm hôm 26/12 có thể liên quan đến cuộc gặp dự kiến diễn ra vào ngày 28/12 giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelensky, để thảo luận về đàm phán hòa bình.

Đối với mặt hàng ngô, giá nông sản này đã chạm ngưỡng kháng cự quan trọng 4,50 USD/bushel nhưng không thể bứt phá và quay đầu đóng cửa ngay tại mức này. Ông Doug Bergman từ RCM Alternatives cho rằng thị trường đang ở trạng thái "mua quá mức" sau những đợt tăng giá gần đây, dù nhu cầu xuất khẩu của Mỹ vẫn đang duy trì đà tích cực.

Trong khi đó, áp lực nguồn cung từ Nam Mỹ đang gia tăng. Chuyên gia Arlan Suderman của StoneX thông tin, Brazil đã bắt đầu thu hoạch đậu tương sớm, ước tính ghi nhận một vụ mùa kỷ lục, có thể đạt hơn 6,5 tỷ bushel nhờ lượng mưa tốt trên toàn quốc. Tại Argentina, dù đang ở giai đoạn đầu của vụ mùa và thời tiết khô hơn, nhưng các cơn mưa kịp thời vẫn đang hỗ trợ duy trì chất lượng cây trồng ở mức cao.

Thị trường cà phê thế giới cuối tuần ghi nhận sự phân hóa do lịch nghỉ lễ và yếu tố thời tiết.

Tại sàn London, giá cà phê Robusta giao tháng 1/2026 vẫn giữ nguyên mức chốt phiên của ngày 24/12 là 4.012 USD/tấn. Việc neo giữ ở vùng đỉnh trên 4.000 USD này tiếp tục là bệ đỡ tâm lý vững chắc cho thị trường toàn cầu.

Ngược lại, sàn New York đã mở cửa trở lại và ngay lập tức "dậy sóng". Giá cà phê Arabica giao tháng 3/2026 tăng vọt 5,10 xu/lb (1,48%), đóng cửa ở mức cao 350,25 xu/lb (1lb = 0,45kg). Đây là phiên tăng điểm mạnh mẽ, giúp Arabica lấy lại toàn bộ những gì đã mất trong các phiên điều chỉnh giữa tuần và xác lập xu hướng tăng mới.

Nguyên nhân giúp thúc đẩy đà tăng mạnh của cà phê Arabica là thông tin dự báo thời tiết mới nhất tại Brazil. Các mô hình khí tượng cảnh báo một đợt nắng nóng gay gắt sẽ quét qua các vùng trồng cà phê trọng điểm của Brazil và có thể kéo dài đến hết ngày 29/12. Nhiệt độ cao kết hợp với lượng mưa thấp đang làm dấy lên lo ngại nghiêm trọng về sức khỏe cây trồng vụ tới. Tuần trước Minas Gerais chỉ đạt 76% lượng mưa trung bình.

Bên cạnh đó, các yếu tố hỗ trợ cơ bản vẫn đang phát huy tác dụng. Tại Indonesia, thông tin ngập lụt khiến giá cà phê Robusta ở mức cao kỷ lục dù sàn London không giao dịch. Thêm vào đó, thị trường Mỹ đang trong tình trạng "khát hàng" khi lượng nhập khẩu từ Brazil giai đoạn tháng 8-10 giảm tới 52% do rào cản thuế quan trước đây.

Tại Việt Nam, dù Cục Thống kê báo cáo xuất khẩu cà phê tháng 11 tăng 39% và USDA dự báo sản lượng niên vụ tới tăng 6,2%, nhưng nhu cầu gom hàng trả hợp đồng của các nhà xuất khẩu vẫn rất lớn. Với đà tăng tốc hiện tại của Arabica và sự vững vàng của Robusta, mốc 100.000 đồng/kg cho cà phê Việt Nam nhiều khả năng sẽ được tái lập ngay trong tuần tới, trước khi kỳ nghỉ Tết Dương lịch bắt đầu.

Thị trường cà phê trong nước sáng 27/12 giao dịch ở mức giá trung bình 98.100 đồng/kg, chỉ còn cách mốc 100.000 đồng/kg một khoảng rất ngắn.

Bích Hồng - Minh Hằng  (TTXVN)
Gạo Ấn Độ từng bước mở rộng thị trường
Gạo Ấn Độ từng bước mở rộng thị trường

Năm 2025 đánh dấu một giai đoạn quan trọng của ngành lúa gạo Ấn Độ, khi quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới này từng bước tái khẳng định vai trò trung tâm trong chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu. Việc mở cửa thêm khoảng 26 thị trường mới trong năm nay không chỉ phản ánh sự phục hồi sau giai đoạn bất ổn, mà còn cho thấy sự chuyển dịch chiến lược của Ấn Độ từ “xuất khẩu khối lượng lớn” sang “đa dạng hóa thị trường và phân khúc giá trị”.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN