Hỗ trợ tối ưu hóa sản xuất
Ông Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, thời gian qua, nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX), trang trại, hộ gia đình… đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý và sản xuất, kinh doanh (SXKD); phân tích dữ liệu về đất đai, thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên, thời tiết, truy suất nguồn gốc, nhu cầu thị trường…; ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT), blockchain, công nghệ sinh học, di truyền, phân tích hệ gen, nuôi cấy mô, quản lý giống vật nuôi; phát hiện sớm và cảnh báo cháy rừng, suy thoái rừng; ứng dụng công nghệ dò cá sử dụng sóng siêu âm, công nghệ GIS, GPS…
"CĐS giúp nông dân, trang trại, HTX, DN nâng cao năng suất, chất lượng, tối ưu hóa hoạt động sản xuất, giảm chi phí, tăng lợi nhuận, hiệu quả sản xuất cao hơn, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị. CĐS là giải pháp hữu hiệu để khắc phục điểm yếu cố hữu là sản xuất manh mún, nhỏ lẻ và thiếu liên kết", ông Nguyễn Duy Hưng đánh giá.
Chia sẻ cụ thể hơn về một số kết quả ban đầu của CĐS trong nông nghiệp, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết việc thực hiện CĐS nông nghiệp bước đầu đã được áp dụng trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp mang lại những kết quả hết sức khả quan.
Đơn cử như việc sử dụng Internet đã giúp đơn giản hóa và hợp lý hóa việc thu thập các khâu kiểm tra phân phối tổng thể tài nguyên nông nghiệp; các chương trình phần mềm quản trị từ vườn trồng, ao nuôi, vườn nuôi, nông nghiệp chính xác được áp dụng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên để dần dần chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại, tạo ra nhiều cơ hội tăng năng suất lao động, giảm phụ thuộc vào điều kiện môi trường, thời tiết, kiểm soát dịch bệnh và công tác giống được thực hiện tốt hơn.
Tiêu biểu trong trồng trọt là các phần mềm, phân tích dữ liệu về môi trường, giai đoạn sinh trưởng của cây, cho phép duy trì, theo dõi các thông số này theo thời gian thực.
Trong chăn nuôi, công nghệ IoT, blockchain, công nghệ sinh học được ứng dụng ở trang trại quy mô lớn, công nghệ mã vạch được sử dụng để quản lý giống và lâm sản, công nghệ GIF và ảnh viễn thám để xây dựng các phần mềm phát hiện sớm và cảnh báo cháy, mất, suy thoái rừng.
Lĩnh vực thủy sản đã ứng dụng thiết bị dò cá, sử dụng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh, công nghệ GIF, hệ thống định vị toàn cầu GPS giúp quản lý đội tàu, khai thác hải sản xa bờ; ứng dụng công nghệ sinh học để chọn lọc, lai tạo các giống năng suất chất lượng cao có khả năng kháng bệnh, chịu đựng tốt với môi trường công nghiệp nuôi thủy sản, sản phẩm tuần hoàn; công nghệ blockchain, nano để nuôi cá nước lạnh; công nghệ AI đã được ứng dụng trong nuôi tôm nhằm phân tích chất lượng nước, quản lý thức ăn, sức khỏe tôm nuôi; công nghệ tự động hóa đã được áp dụng khá rộng rãi trong khâu chế biến thủy sản giúp giảm chi phí sản xuất, đảm bảo chất lượng thủy sản.
Theo Bộ NN&PTNT, ước tính đến năm 2021, cả nước có 19.000 HTX nông nghiệp, trong đó có hơn 2200 HTX ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất.
Nâng cao giá trị nông sản
Tuy đã đạt được một số kết quả, song ông Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, thực tế CĐS trong nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa đồng bộ, chưa hình thành những yếu tố cơ bản của nông nghiệp số, nông thôn số. Nhiều chuyên gia cho rằng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay vẫn chưa có nền tảng số, chuỗi kết nối số, chưa có cách tiếp cận mới và toàn diện theo yêu cầu của CĐS, thiếu cơ sở dữ liệu lớn cho sản xuất, thiếu kết nối chia sẻ đồng bộ thông tin của tất cả các khâu sản xuất, quản lý, logictics, thương mại nông sản; chưa tạo ra cơ hội cho nông sản vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn kết nối trực tiếp với hệ thống thương mại toàn cầu và chia sẻ dữ liệu cho các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.
Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, quy mô ứng dụng CĐS trong nông nghiệp vẫn chưa đồng bộ giữa các vùng miền, địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở hạ tầng phát triển nông nghiệp, ứng dụng công nghệ mới chưa đồng bộ, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp, trình độ cơ giới hóa sản xuất còn thấp, các công nghệ phụ trợ, cơ khí chế biến, dây chuyền kiểm nghiệm sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu sâu, tinh. Nguồn nhân lực trình độ chuyên môn cao, sâu về chế biến sản xuất nông sản, biết sử dụng vận hành các thiết bị tự động số, thiết bị phân tích rất hạn chế bởi lực lượng nông nghiệp chưa được đào tạo chuyên sâu, bài bản.
Nhấn mạnh thêm vai trò của CĐS đối với nông nghiệp, nông thôn, ông Nguyễn Duy Hưng khẳng định: “Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo, CĐS được xác định là một trong các trụ cột thực hiện phát triển nhanh và bền vững, là một trong các khâu đột phá, góp phần tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Nông nghiệp, nông thôn không đứng ngoài cuộc CĐS mà được Chương trình CĐS Quốc gia xác định là một trong 8 lĩnh vực ưu tiên, theo đó phát triển nông nghiệp công nghệ cao chú trọng nông nghiệp thông minh, phải dựa trên nền tảng dữ liệu, nhất là hệ thống dữ liệu lớn của ngành, như đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản, thời tiết, môi trường…; tự động hóa quy trình SXKD; phát triển mạnh thương mại điện tử; quản lý quy hoạch và dự báo, cảnh báo thị trường…".
Từ góc độ chuyên gia quốc tế, ông Aziz Elbehri, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) cho biết: Mặc dù số hóa có tiềm năng giảm nghèo ở nông thôn, giảm khoảng cách số hoặc thúc đẩy phát triển toàn diện, nhưng điều này không phải lúc nào cũng được đảm bảo bởi không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn phát triển hệ thống số, trong đó có sự thay đổi nhận thức.
Đưa ra các đề xuất cho Việt Nam phát triển nông nghiệp số, bà Dina Umali-Deininger, Giám đốc thực hành, nhóm nông nghiệp và thực phẩm, Ngân hàng thế giới (WB) cho biết phát triển nông nghiệp số cần ưu tiên các lĩnh vực: Nâng cao năng lực và chia sẻ kiến thức thông qua việc đào tạo kỹ năng nông nghiệp số cho nông dân và cán bộ khuyến nông; Cải thiện chương trình giảng dạy đại học về nông nghiệp số; Tăng cường thể chế và cơ sở hạ tầng bổ sung bằng cách số hóa các hệ thống của Bộ NN&PTNT, số hóa các dịch vụ để đạt hiệu quả và minh bạch (ID nông dân, đài quan sát nông nghiệp, chứng từ điện tử).
Còn theo đại diện FPT, ngành nông nghiệp là một trong những điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, những năm gần đây vẫn chứng kiến xu hướng giảm của ngành. Do đó, ngành Nông nghiệp Việt Nam cần có những bước chuyển dịch nhằm tăng hiệu quả trong canh tác, sản xuất để bắt kịp xu thế thị trường, đồng thời phát triển vượt mục tiêu 3,84%/năm. Chuyển đổi số sẽ là nền tảng hỗ trợ quá trình này.
Tại Việt Nam, chuyển đổi số có thể bắt đầu tư những công nghệ đơn giản như truy xuất nguồn gốc để nâng tầm giá trị nông sản, mang lại lợi ích thiết thực cho người nông dân, doanh nghiệp và người tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp. Ông Lê Vũ Minh, Giám đốc khối tư vấn Chiến lược và Đổi mới sáng tạo, FPT Digital đánh giá: “Xu hướng chuyển đổi số đang tạo cơ hội để sản phẩm nông sản có cơ hội bứt phá dựa trên tăng cường tự động hóa để nâng cao năng suất, minh bạch thông tin để nâng cao giá trị, hướng tới các thị trường cao cấp. Giá trị từ số bên trong sản phẩm là yếu tố quan trọng giúp nâng cao giá bán sản phẩm nông nghiệp. Sự chuyển đổi số ngành nông nghiệp cần sự tham gia hiệp đồng từ nhiều bên, trong đó lấy chủ thể là người người sản xuất nông nghiệp (nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp)”.