Hạ tầng hàng hải phát triển hiệu quả
Thực hiện Quy hoạch hệ thống cảng biển đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và điều chỉnh phê duyệt, đến nay, kết cấu hạ tầng hàng hải đã có bước phát triển mạnh mẽ. Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện đã hình thành các cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại khu vực phía Bắc (Hải Phòng) và phía Nam (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Trong đó, các bến cảng được đầu tư chiều sâu, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, nên lượng hàng thông qua vượt cảng biển đạt công suất thiết kế. Riêng khu bến cảng Cát Lái đạt 1,3 - 1,5 công suất thiết kế. Đến năm 2020, thị phần vận tải hàng hóa của lĩnh vực hàng hải chiếm 23,17% toàn ngành so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển GTVT Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2035 là 9 - 14% (vượt 166 - 257%), mức tăng trưởng bình quân hàng thông qua cảng biển cả nước đạt 8,4 %/năm giai đoạn 2017 - 2021.
Lĩnh vực hàng hải cũng là lĩnh vực duy nhất tăng trưởng trong 5 lĩnh vực GTVT từ năm 2020 đến nay mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, với tổng lượng hàng hóa thông qua cảng biển năm 2020 đạt 692,2 triệu tấn so với mục tiêu quy hoạch 640 - 680 triệu tấn (gấp khoảng 8,4 lần năm 2000), đạt mức tăng trưởng 13,3%/năm giai đoạn năm 2015 - 2020. Trong đó, tăng trưởng hàng container giai đoạn 2017 - 2021 đạt mức 3,5% về tấn (thấp hơn so với tăng trưởng hàng hóa tổng thể là 8,36%) và 9,91% về Teu; hàng khô (hàng tổng hợp, hàng rời) tăng trưởng đạt 15,34%.
Ngoài ra, cả nước hiện đã thiết lập được 34 tuyến vận tải biển, gồm 11 tuyến nội Á, 3 tuyến đi châu Âu, 20 tuyến đi châu Mỹ, vượt trội hơn các nước khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Malaysia và Singapore). Đáng chú ý, cụm cảng Cái Mép được xếp hạng thứ 11 trên tổng số 370 cảng/cụm cảng container hoạt động tốt nhất toàn cầu (theo cách tính thống kê trung bình 5 nhóm kích cỡ tàu) - tăng 38 bậc so với năm 2020 và xếp thứ 13 về chỉ số “administrative approach” (theo cách tính kỹ thuật, cho trọng số cao hơn cho kích cỡ tàu phổ biến ở cảng đó) – tăng 5 bậc so với năm 2020; cảng Vũng Tàu của Việt Nam cũng đạt thứ hạng 37/370 theo cách tính kỹ thuật.
Thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ GTVT), đến đầu năm 2023, cả nước có 296 bến cảng, chiều dài khoảng 107 km cầu cảng (gấp 5 lần năm 2000). Đồng thời, đã hình thành các cảng cửa ngõ quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam, cũng như tiếp nhận thành công tàu container đến 145.000 tấn tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến 214.000 tấn tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu). Các bến cảng chuyên dùng cũng được phát triển và tiếp nhận được nhiều tàu trọng tải lớn, các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện than tiếp nhận tàu đến 200.000 tấn, hàng lỏng đến 150.000 tấn (tàu xuất sản phẩm), dầu thô đến 320.000 tấn, cơ bản đã đạt được các mục tiêu quy hoạch đến năm 2020.
Với những chính sách mở về đầu tư cảng biển, thời gian qua cảng biển Việt Nam đã thu hút được các doanh nghiệp đầu tư khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn của thế giới tham gia đầu tư xây dựng và vận hành khai thác cảng, đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng và đủ sức cạnh tranh trong hoạt động cảng biển với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục tăng cường đầu tư hạ tầng cảng biển
Theo rà soát của Bộ GTVT, để hoàn thiện “Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” gửi Thủ tướng Chính phủ, tính đến năm 2030, tổng nhu cầu đầu tư cho hệ thống cảng biển khoảng 312.625 tỷ đồng. Trong đó, nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hảng hải công cộng khoảng hơn 70.000 tỷ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng hơn 242.000 tỷ đồng.
Cụ thể, đến năm 2025, tập trung đầu tư nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải phục vụ tàu đến 200.000 tấn giảm tải (18.000 Teu); dự án luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu - giai đoạn 2 cho tàu đến 20.000 tấn giảm tải; luồng sông Văn Úc cho tàu 10.000 tấn, luồng sông Chanh cho tàu đến 50.000 tấn. Nhiều tuyến luồng khu vực miền Trung được ưu tiên nâng cấp như luồng vào cảng Nghi Sơn cho tàu đến 50.000 tấn, luồng Thọ Quang cho tàu đến 10.000 tấn, luồng Quy Nhơn cho tàu đến 50.000 tấn; ưu tiên đầu tư đèn biển tại các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, kết cấu hạ tầng phục vụ công tác bảo đảm an toàn hàng hải; xây dựng Đài thông tin duyên hải, Trung tâm TKCN, đại diện Cảng vụ hàng hải Nha Trang tại Trường Sa.
Đến năm 2030, tiến hành đầu tư xây dựng công trình đê chắn sóng cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh), đồng thời cải tạo, nâng cấp hệ thống đê chắn cát luồng Cửa Việt, Cửa Gianh cũng như cải tạo, nâng cấp luồng Cẩm Phả, luồng Ba Ngòi, luồng Hòn La, luồng hàng hải qua cửa Trần Đề và chỉnh trị luồng hàng hải Diêm Điền, Văn Úc.
Hệ thống quản lý hàng hải tàu biển (VTS) cũng sẽ được ưu tiên đầu tư tại luồng Hòn Gai - Cái Lân và luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu. Đối với các bến cảng biển, đến năm 2025 sẽ ưu tiên đưa vào khai thác các bến 3, 4, 5, 6 tại khu bến Lạch Huyện, bến khởi động tại khu bến Liên Chiểu và các bến cảng chính thuộc cảng biển loại I.
Ngoài ra, các địa phương có biển phát triển các bến khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch, cũng như các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim và các bến phục vụ khu kinh tế ven biển.
Giai đoạn này, ngành Hàng hải cũng kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các cảng biển tiềm năng như Vân Phong và Trần Đề. Đến giai đoạn năm 2030, sẽ đầu tư bến khởi động khu bến Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), các bến cảng tại khu vực Cái Mép hạ và hạ lưu Cái Mép hạ và khu bến Trần Đề (Sóc Trăng).