Tây Nguyên là địa bàn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước.
Vùng đất giàu tiềm năngTây Nguyên là vùng có nhiều tiềm năng nhưng đến nay mới đóng góp khoảng 4,5% GDP của cả nước, so với các vùng miền khác thì Tây Nguyên vẫn là vùng kém phát triển. Nhu cầu vốn để phát triển Tây Nguyên là rất lớn nhưng ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng được một phần cơ bản, phần lớn cần phải huy động từ các nguồn khác như ODA, FDI và vốn trong nước. Do đó, ngoài sự đầu tư của nhà nước, Tây Nguyên rất cần sự đầu tư từ các nguồn khác từ trong và ngoài nước.
Ông Trần Việt Hùng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cho biết, trong những năm qua vùng Tây Nguyên được sự quan tâm của Trung ương và đầu tư của Nhà nước về chính sách, nguồn lực; sự liên kết, hỗ trợ của các tỉnh, thành phố trong khu vực và cả nước. Do có sự quan tâm đầu tư của các nhà đầu tư, của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đến nay, Tây Nguyên đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa rất quan trọng. Kinh tế của vùng đã chuyển dịch mạnh mẽ và phát triển theo hướng đa dạng với quy mô, chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng; cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi. Thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Từ năm 2009 đến nay, vùng Tây Nguyên đã tổ chức hai Hội nghị xúc tiến đầu tư (lần một là 9/2009 và lần hai là 4/2013). Theo sự thống nhất từ các tỉnh và bộ, ngành thì hai năm sẽ tổ chức Hội xúc tiến đầu tư một lần. Nhưng hiện nay, do khó khăn chung của nền kinh tế và của doanh nghiệp, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cân nhắc lựa chọn thời điểm thích hợp và chuẩn bị kỹ các điều kiện thì mới có thể tổ chức được Hội nghị xúc tiến đầu tư tiếp theo.
Thi công đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên. |
Với 5 tỉnh nằm trong sự quản lý của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng và Tây Nguyên là một trong sáu vùng kinh tế lớn của cả nước. Với điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng khác biệt và lợi thế so với các khu vực khác, cho phép Tây Nguyên có khả năng phát triển kinh tế nhanh và bền vững, trong đó kinh tế nông nghiệp, nông thôn là mũi nhọn. Tây Nguyên có lợi thế phát triển các cây công nghiệp quan trọng như: Cà phê (chiếm 92% sản lượng cà phê của cả nước), hồ tiêu (chiếm 34% diện tích cả nước), cao su (chiếm 33% diện tích trồng cao su của cả nước) phục vụ xuất khẩu, và gần đây xuất hiện tiềm năng về phát triển cây mắc-ca.
Để có cái nhìn toàn diện và đúng đắn nhất về việc triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây Nguyên, chỉ rõ những khó khăn, hạn chế của vùng để kịp thời có những biện pháp khắc phục, tháo gỡ, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Lâm Đồng sẽ tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư lần thứ 3-2015 vào ngày 17/5 này để thảo luận một số nội dung tập trung vào các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Ông Trần Việt Hùng, Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên |
Ngoài ra, đây cũng là vùng sản xuất rau, hoa công nghệ cao phục vụ xuất khẩu. Với vị trí là lưu vực của 3 con sông lớn (Sê San, Srêpôk và sông Đồng Nai), Tây Nguyên có tiềm năng lớn về thủy điện (chiếm 27% tổng tiềm năng kinh tế - kỹ thuật thủy điện của Việt Nam). Tây Nguyên có trữ lượng khá về các loại khoáng sản như: Bô-xít, quặng vàng, vật liệu xây dựng, đá quý, than bùn, than nâu và kim loại màu nặng. Với khí hậu ôn đới và điều kiện tự nhiên lý tưởng cho nghỉ dưỡng cao cấp, Tây Nguyên rất giàu tiềm năng khai thác du lịch với các điểm du lịch nổi tiếng như Đà Lạt (Lâm Đồng), Kon Plông (Kon Tum).
Với vị trí chiến lược về kinh tế và quốc phòng của Tây Nguyên, những năm qua, Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng. Nhà nước đã chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp xúc tiến, thu hút đầu tư mạnh mẽ vào khu vực này. Báo cáo từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tính lũy kế đến 15/12/2014, khu vực Tây Nguyên đã có 148 dự án FDI đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 819 triệu USD. Hiện nay, Lâm Đồng đang đứng đầu khu vực với 122 dự án và khoảng 500 triệu USD vốn đầu tư (chiếm 82% tổng số dự án và 61% tổng vốn đầu tư của cả khu vực). Tiếp đến lần lượt là Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Nông.
Chủ động kêu gọi đầu tưÔng Nguyễn Kim Anh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết: Trong thời gian qua, ngành ngân hàng luôn bám sát chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng Tây Nguyên. Theo đó, đến 31/12/2014, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn các tỉnh vùng Tây Nguyên ước đạt 144.646 tỷ đồng, tăng 16,28% so với 31/12/2013, cao hơn bình quân của cả nước (14,02%). Trong đó, dư nợ tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn khu vực Tây Nguyên ước đạt 67.599 tỷ đồng, tăng 10,1% so với 31/12/2013 và chiếm tỷ trọng 46,65% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế của cả vùng.
Dư nợ cho vay đối với ngành cà phê tại khu vực Tây Nguyên tính đến 31/12/2014 đạt 30.015 tỷ đồng, tăng 17,25% so với 31/12/2013 (chiếm 81,1% dư nợ cho vay cà phê toàn quốc), trong đó, dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm 20% trong tổng dư nợ tín dụng đối với ngành cà phê. Tổng dư nợ cho vay các chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội đến 31/12/2014 tại khu vực Tây Nguyên đạt: 10.953 tỷ đồng, chiếm 8,5% tổng dư nợ toàn quốc với trên 521.000 hộ còn dư nợ, tăng 8,5% so với 31/12/2013. Về công tác an sinh-xã hội, năm 2014, ngành ngân hàng đã tài trợ khu vực Tây Nguyên với tổng số tiền là 131,6 tỷ đồng.
Tuy nhiên, tình hình phát triển kinh tế-xã hội của vùng Tây Nguyên chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của vùng. Tây Nguyên là khu vực có mặt bằng kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán và trình độ sản xuất khác biệt và đang ở mức thấp so với các khu vực khác của cả nước. Tỷ trọng GDP của Tây Nguyên so với cả nước đạt khoảng 9%. Tỷ lệ hộ nghèo của vùng còn ở mức 10,12%, hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số còn ở mức 23,09%.
Việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, bất cập: Đó là sự phối hợp, gắn kết 4 nhà trong chuỗi sản xuất nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp theo các mô hình liên kết, mô hình áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, mô hình liên kết sản xuất các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Nguồn vốn trung và dài hạn cho phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn của vùng như chế biến lâm sản, khai khoáng, thủy điện còn gặp khó khăn. Nguồn vốn huy động tại khu vực chỉ đáp ứng được khoảng 58,8% nhu cầu vốn của vùng, chủ yếu cho vay vốn lưu động. Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực này vẫn đạt kết quả thấp so với các vùng khác của cả nước...
“Chúng tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến của các bộ, ngành, các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài ngành và các doanh nghiệp cùng tham gia thảo luận tại diễn đàn. Tập trung vào các nội dung chủ yếu: Vai trò của ngành ngân hàng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Cơ chế, chính sách thúc đẩy tín dụng, các chương trình tín dụng đối với vùng này, đặc biệt các chương trình cho vay tái canh cây cà phê, cho vay theo chuỗi giá trị, chương trình tín dụng chính sách, các chương trình an sinh - xã hội đối với Tây Nguyên… Kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp. Vấn đề quy hoạch vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn cho tiêu thụ và xuất khẩu của vùng.
Vấn đề xúc tiến kêu gọi đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài. Vấn đề liên kết vùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp. Quá trình thực hiện đầu tư của các doanh nghiệp trên địa bàn vùng Tây Nguyên, kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp”, ông Trần Việt Hùng nhấn mạnh.
Viết Tôn