(Tin tức) - Các trường ĐH khối kinh tế, quản trị kinh doanh vừa tổng kết đánh giá thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ (KHCN) trong 5 năm qua. Đại diện nhiều trường cho biết, hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) có giá trị lý luận và thực tiễn cao nhưng giá trị thương mại của các công trình nghiên cứu còn thấp.
Sinh viên nghiên cứu đề tài khoa học nuôi cấy mô trong phòng thí nghiệm để lai tạo và nhân giống cây chất lượng cao. Ảnh: Anh Tuấn - TTXVN |
Theo báo cáo tổng kết NCKH trong 5 năm qua, nguồn kinh phí cho hoạt động KHCN của các trường khối kinh tế, quản trị kinh doanh chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Cụ thể, số kinh phí chi cho hoạt KHCN giai đoạn 2006 - 2010 hơn 133 tỷ đồng được đánh giá là quá thấp so với mức đầu tư cho các đề tài. Trong khi đó, có một nguồn thu không nhỏ, nằm ngoài ngân sách hoạt động KHCN, là nguồn từ các hợp đồng tư vấn nhưng các trường không thống kê được nguồn thu này. Nguồn thu thương mại với sản phẩm KHCN chủ yếu từ xuất bản giáo trình, sách chuyên khảo chuyên ngành. Nguyên nhân chính là nhiều công trình được thực hiện theo đơn đặt hàng. Việc thương mại hóa sản phẩm gặp nhiều khó khăn về thủ tục pháp lý.
Về thực trạng này, PGS.TS Trần Thọ Đạt, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân cho biết, thành tựu mà các trường đạt được chủ yếu là nghiên cứu lý luận cơ bản, phục vụ hoạch định chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, NCKH ở các trường còn nhằm tư vấn kinh doanh cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội; tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học, thông tin khoa học về các vấn đề kinh tế xã hội; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực NCKH và tư vấn. Tuy nhiên, những hoạt động này chiếm tỷ lệ chưa cao.
Ông Phùng Xuân Nhạ, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế (ĐH Quốc Gia Hà Nội) trăn trở: “Các công trình nghiên cứu xong tốn kém hàng tỷ đồng nhưng chỉ để… ngăn kéo tủ. Các trường vẫn chưa chịu tìm “đầu ra” cho mình”. Còn ông Nguyễn Hữu Tri, Chủ nhiệm Khoa Quản trị kinh doanh, ĐH Phương Đông bày tỏ, các trường đều nói không có kinh phí cho NCKH trong khi có thể thực hiện theo cơ chế thị trường.
Một trong những nguyên nhân được nhiều trường nhấn mạnh vẫn là nguồn nhân lực để thực hiện NCKH. Nhiều ý kiến đánh giá thời gian dành cho NCKH của giảng viên các trường ĐH kinh tế, quản trị kinh doanh còn ít. Một giảng viên ĐH Thương mại (giấu tên) cho biết: “Việc NCKH chỉ là nhiệm vụ được xếp sau nhiệm vụ giảng dạy và dạy thêm. Nếu không NCKH cũng không sao nhưng nếu không hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy lại là vấn đề lớn. Còn dạy thêm là để tăng thêm thu nhập”. Được biết số giảng viên của ĐH Thương mại vừa chủ trì, vừa tham gia NCKH chỉ ở tỷ lệ 36,3%.
Để việc NCKH được sự hưởng ứng của giảng viên và đưa vào thực tiễn cuộc sống, một trong những giải pháp của các trường ĐH khối kinh tế, quản trị kinh doanh là tiến hành phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học. Việc này đi đôi với việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp nghiên cứu để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ làm khoa học có nhiệt huyết với sự nghiệp nghiên cứu khoa học, có đủ năng lực tham gia tuyển chọn các đề tài, dự án và nhiệm vụ KHCN trong và ngoài nước. Song song với việc này, phải đổi mới cơ chế tài chính với nghiên cứu khoa học, tăng mức đầu tư kinh phí từ ngân sách nhà nước và từ nguồn thu sự nghiệp của các trường cho hoạt động NCKH trong dự toán chi hàng năm gắn với việc đổi mới cơ chế tuyển chọn, giao đề tài và nâng cao chất lượng nghiên cứu...
Theo báo cáo tổng kết hoạt động NCKH trong 5 năm qua, các trường ĐH khối kinh tế, quản trị kinh doanh xuất bản được 403 cuốn giáo trình và 768 sách tham khảo. Công bố được 153 bài báo trên các tạp chí quốc tế, 172 bài tại các hội thảo quốc tế, 3.008 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí trong nước và 2.487 bài đăng trên kỷ yếu khoa học trong nước. Như vậy, tỷ lệ công trình công bố trên các tạp chí quốc tế trên tổng số các công trình đã công bố trên các báo, tạp chí chỉ có 5,58%. Tổng số các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước mà khối trường này nhận được trong 5 năm qua là 38 đề tài; 805 đề tài cấp bộ, 1.209 đề tài cấp cơ sở và 34 đề tài hợp tác quốc tế. |
Lê Vân