Hôm đó là ngày 24/1, vào lúc 5 giờ sáng, Binns đang nằm trong cabin, không ngủ được vì những tiếng còi báo hiệu liên tục trong sương mù. Bất chợt con tàu lắc mạnh và một cú va chạm lớn hất tung Binns xuống sàn. Đèn vụt tắt trong tiếng rít gai người của những miếng kim loại đang bị xé rách.
|
Jack Binns, nhân viên của Marconi làm việc trên tàu Cộng hòa. |
Trong màn sương dày đặc với tầm nhìn gần như bằng không, tàu Florida đã đâm vào giữa thân tàu Cộng hòa. Chiếc mũi tàu sắc nhọn của nó thọc sâu vào phòng động cơ và phá hủy hai ngăn kín nước chính của chiếc Cộng hòa. Sau đó Florida bị dội ngược ra ngoài và chìm vào sương mù trong khi nước biển bắt đầu tràn vào phòng động cơ của con tàu nạn nhân.
Binns vội vã băng qua bóng tối đi tìm phòng vô tuyến. Cú đâm đã làm sập tường và phá hủy nhiều thiết bị của anh. Cố gắng cứu vớt được những gì có thể, anh nhanh chóng mắc lại dây của chiếc máy phát vào bộ pin dự phòng. Khi đó, tàu Cộng hòa trôi lênh đênh và đang chìm dần giữa một tuyến đường biển vốn rất đông đúc. Tất cả mọi thứ giờ đây phụ thuộc vào Binns.
|
Phòng vô tuyến trên tàu Cộng hòa. |
Chàng trai trẻ bắt đầu đánh dòng chữ: C Q D, C Q D, C Q D. “CQ” lặp đi lặp lại có nghĩa là “tất cả các trạm”, dùng để ra lệnh cho mọi tàu và các trạm vô tuyến trên bờ phải ngừng truyền phát ngay lập tức để dành sóng cho tín hiệu tối quan trọng. “D” có nghĩa là “nguy cấp”. Đoạn mã “C Q D” được công ty của Marconi đưa ra vào năm 1904 như một cách để kêu gọi trợ giúp tức thì và chỉ được cho phép sử dụng trong những tình huống cực kỳ khẩn cấp.
Dù tín hiệu của Binns rất yếu, trạm vô tuyến ở Siasconsett cách đảo Nantucket 30 dặm vẫn may mắn bắt được. Họ nhận được một dòng chữ “C Q D” duy nhất. Từ Newfoundland đến New York, không một tín hiệu nào được phát ra, cho phép trạm Siasconsett nhận rõ tín hiệu yếu từ màn sương của Nantucket: C Q D MKD C Q D MKD. “MKD” chính là ký hiệu của chiếc Cộng hòa.
Người vận hành máy ở Siasconsett nhanh tay phiên âm đoạn mã Morse vừa tới sau đó: “Cộng hòa bị tàu hơi nước chưa rõ đâm, cách Nantucket 26 dặm về phía tây nam, vĩ độ 40.17, kinh độ 70, rất cần trợ giúp”. Người này liền lặp lại đoạn tin nhắn cho tất cả các trạm và bắt đầu nỗ lực phối hợp giải cứu: “Gửi tàu hơi nước hải quan Gresham, Cộng hòa đang nguy cấp và chìm, vĩ độ 40.17, kinh độ 70”.
|
Tranh vẽ mô tả vụ đâm tàu Cộng hòa và Florida. |
Trong khi đó, tàu Florida, vẫn chưa được lắp công nghệ vô tuyến, đã lại hiện ra trong sương mù ngay cạnh chiếc Cộng hòa đang nghiêng dần. May mắn thay, dù bị nước cuốn nhưng nó không có nguy cơ chìm như Cộng hòa. Những con sóng cao gần 2,5 m giữa biển lặng cũng làm giảm nguy hiểm phần nào. Không chần chừ, thủy thủ đoàn hai tàu cùng nhau chuyển hành khách từ Cộng hòa sang chiếc tàu Florida cũng bị hư hại và sắp quá tải.
Trong khi đó, nhân viên của Ngôi sao Trắng đã theo dõi sát những tin nhắn khẩn cấp. Lo sợ sẽ mất Cộng hòa, họ phát đi đoạn tin: “Gửi tàu khu trục hải quân Mỹ Seneca, Cộng hòa và Florida đang trôi dạt đâu đó gần hải đăng Nantucket, hãy làm tất cả để cứu Cộng hòa”.
Tàu RMS Baltic, một chiếc tàu lớn khác của Ngôi sao Trắng, chỉ cách đó 64 dặm. Nhận được lời cầu cứu, Baltic trả lời: “Gửi Siasconsett, đã nhận được tin nhắn về vụ đâm tàu Cộng hòa, sẽ tới trợ giúp”.
Tới chiều, sương mù đã làm giảm tầm nhìn đến chỉ còn một nửa thân tàu. Binns liên tục phát các tin nhắn khi bộ pin của anh đang cạn dần. Răng va lạch cạch trong cái lạnh như đông cứng, Binns trùm trong chăn, chỉ để hở một bàn tay để bấm phím.
Sương mù dày đặc khiến việc xác định hai con tàu chẳng khác gì mò kim đáy bể. Dù Baltic chỉ cách đó 64 dặm nhưng phải mất hơn 12 giờ nó mới tìm ra Cộng hòa. Chỉ có tín hiệu ngày càng rõ của Binns mới giúp Baltic tiến gần hơn. Cuối cùng, Baltic lờ mờ hiện ra chỉ cách Cộng hòa 600 m. Nhân viên của Marconi trên Baltic đánh điện: “Đã tìm thấy Florida và Cộng hòa, sẵn sàng giúp đỡ”.
Vượt qua giá lạnh, bóng tối, sương mù và những con sóng ngày càng cao, thủy thủ đoàn của 3 con tàu chuyển hơn 1.000 hành khách từ chiếc Florida quá tải sang Baltic bằng thuyền cứu hộ. Vào thời điểm đó, đây là cuộc chuyển người khẩn cấp lớn nhất được thực hiện trên biển. Đáng chú ý, nó hoàn thành mà không mất một sinh mạng nào.
Rốt cuộc, đến 8 giờ tối ngày 25/1, Cộng hòa bắt đầu chìm nhanh. Binns, run lên vì mất nhiệt, đã ở vị trí trong suốt 39 giờ và truyền hơn 200 tin. Lúc này, khi pin sắp cạn, anh đánh nốt mẩu tin cuối cùng: “Đang đi. Đóng vô tuyến trên Cộng hòa”. Binns là người cuối cùng rời tàu cùng thuyền trưởng Sealby và thuyền phó.
Một ngày sau, Florida đã cập bờ an toàn và Baltic cũng đưa 1.700 người sống sót đến New York. Chỉ có 5 người đã thiệt mạng vì cú va chạm ban đầu.
Suốt một tuần, báo chí đăng mọi chi tiết của vụ tai nạn và cuộc giải cứu sau đó. Họ gọi nó là “Phép màu Marconi”. Còn Binns, lúc này được biết đến với biệt danh “C Q D”, đã được ca ngợi như một người hùng. Phó chủ tịch của Ngôi sao Trắng còn nói rằng hành khách trên tàu Cộng hòa đã sống sót chính nhờ điện báo vô tuyến.
Sau đó, điện báo vô tuyến đã không còn là một công nghệ mới đầy khó hiểu nữa, mà là một hệ thống an toàn không thể thiếu trong ngành hàng hải. Các chính phủ nhanh chóng ra lệnh sử dụng thiết bị vô tuyến trên tàu khách. Khi hành khách đòi hỏi các tàu phải được trang bị vô tuyến thì họ mới đặt vé cũng là lúc các công ty vận tải biển phải chạy đua để lắp đặt những bộ thu phát Marconi trên những con tàu của mình.
Trần Anh