Sự kiện chính trị trọng đại này là một mốc son trong lịch sử mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống gắn bó nhân dân hai nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi quốc gia.
Lễ ký kết biên bản nghiệm thu và bàn giao Tòa nhà Hữu nghị Việt Nam – Campuchia tại Trụ sở Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia. Ảnh: Phan Minh Hưng/Phóng viên TTXVN tại Campuchia |
Bối cảnh thiết lập quan hệ ngoại giaoGiữa những năm 1960, cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt Nam đang từng bước lan rộng ra toàn cõi Đông Dương, nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, vốn có truyền thống đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lại một lần nữa kề vai sát cánh ủng hộ lẫn nhau mà Hội nghị cấp cao Nhân dân ba nước Đông Dương lần thứ nhất, được tổ chức từ ngày 1 đến 9/3/1965, theo sáng kiến của Quốc trưởng Campuchia Norodom Sihanouk, là một biểu hiện sinh động. Sau hội nghị này, mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với Vương quốc Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu ngày càng được tăng cường.
Hai bên ủng hộ và công nhận lẫn nhau. Việt Nam công nhận và tôn trọng chủ quyền, độc lập, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia trong đường biên giới hiện tại. Campuchia đứng hẳn về phía Việt Nam, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam (trước đó, ngay từ tháng 8/1963, Vương quốc Campuchia đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính quyền Sài Gòn).
Tòa nhà Hữu nghị Việt Nam – Campuchia tại Trụ sở Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia. Ảnh: Phan Minh Hưng/phóng viên TTXVN tại Campuchia |
Trung tuần tháng 6/1967, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ và Quốc trưởng Norodom Sihanouk có thư trao đổi về việc thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 24/6/1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vương quốc Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Trước đó ít ngày, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thiết lập cơ quan đại diện thường trực tại thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Campuchia đã tạo cơ sở pháp lý và niềm tin để khích lệ nhân dân hai nước tiếp tục tăng cường hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà cuối cùng đều giành được thắng lợi vào tháng 4/1975 lịch sử.
Vượt qua thử tháchSau thắng lợi ngày 17/4/1975, trái với mong đợi của nhân dân Campuchia và nhân dân Việt Nam, tập đoàn diệt chủng do Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Nuon Chea, Ta Mok, Ieng Thy Rith cầm đầu một mặt thực hiện chế độ diệt chủng đẩy dân tộc Campuchia vào nguy cơ bị diệt vong, đồng thời trở mặt đưa quân tấn công xâm lược Việt Nam.
Quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống giữa hai dân tộc bị tổn thương nặng nề, nhưng vẫn vượt qua thách thức để khẳng định chân lý “tối lửa tắt đèn có nhau” giữa hai nước láng giềng.
Tình đoàn kết chiến đấu và mỗi quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống một lần nữa lại là bệ đỡ để nhân dân hai nước cùng sát cánh bên nhau, đập tan kẻ thù chung là tập đoàn diệt chủng Pol Pot.
Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia, đồng thời cũng để thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình, các chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam đã sát cánh cùng các lực lượng vũ trang của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh thần tốc, cứu đất nước và nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, đưa đến thắng lợi lịch sử vào ngày 7/1/1979.
Với thắng lợi lịch sử này, quan hệ láng giềng Việt Nam – Campuchia đã vượt qua được thử thách, phát triển lên một giai đoạn mới, gắn bó, tin cậy lẫn nhau.
Phát biểu nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam tháng 12/2013, Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen đã khẳng định: “Hồi đó Việt Nam bị cấm vận từ bên ngoài do giúp Campuchia giải phóng đất nước. Vì nhân dân, đất nước Campuchia mà Việt Nam đã chịu đựng hy sinh”.
Những bước tiến dài trong quan hệ hữu nghị, hợp tácTrải qua nửa thế kỷ, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia đã đạt được nhiều thành tựu trên hầu hết các lĩnh vực. Từ những năm 90, quan hệ hai nước có những bước phát triển mạnh mẽ, tạo dấu ấn thông qua các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai bên.
Chuyến thăm của Thủ tướng Hun Sen năm 1998 tới Việt Nam được đánh giá là đã làm thay đổi sâu sắc diện mạo quan hệ Việt Nam - Campuchia, bởi nhà lãnh đạo Campuchia đã lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tiên trên cương vị Thủ tướng Chính phủ Liên hiệp khóa II, cho thấy sự ưu tiên đối với Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Campuchia.
Trong khi đó, nhân chuyến thăm chính thức của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Campuchia năm 1999, lãnh đạo hai nước đã trao đổi sâu rộng các vấn đề cùng quan tâm và nhất trí phương châm phát triển quan hệ toàn diện lên tầm cao mới đi vào thực chất, hiệu quả, thiết thực.
Trong những năm qua, nhằm tiếp tục củng cố và phát huy quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài, Việt Nam và Campuchia duy trì thường xuyên các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao.
Điển hình là các chuyến thăm Campuchia của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2011), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2012, 2014), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (2010), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (2014), Chủ tịch nước Trần Đại Quang (2016), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân (2016), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (2017),...
Về phía Campuchia là các chuyến thăm Việt Nam của Thái Thượng hoàng Norodom Sihanouk (2010), Quốc Vương Norodom Sihamoni (2012, 2015), Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia, Chủ tịch Thượng viện Chia Sim (2008), Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin (2012, 2015, 2017), Thủ tướng Chính phủ Samdech Techo Hun Sen (2012, 2013, 2016, 2017),...
Qua các chuyến thăm, lãnh đạo cấp cao hai nước khẳng định quyết tâm cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống, hợp tác tốt đẹp giữa hai nước theo đúng tinh thần phát biểu của Quốc vương Campuchia Norodom Sihamoni tại cuộc hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam tháng 9/2012: “Campuchia và Việt Nam là hai nước không thể tách rời, mối quan hệ quý báu giữa hai nước cần được phát huy trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước”.
Song hành với các hoạt động của lãnh đạo cấp cao hai nước, ngoại giao nhân dân giữa Việt Nam và Campuchia cũng được tăng cường. Nổi bật là những hoạt động tích cực của Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia và Hội Hữu nghị Campuchia - Việt Nam, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước và thúc đẩy sự gắn kết giữa hai dân tộc láng giềng. Ngoài ra, các địa phương của hai nước cũng đã tạo lập mối quan hệ gắn bó, nhất là với những tỉnh giáp biên giới. Hiện nay, hai nước đang phối hợp triển khai nhiều hoạt động thiết thực chào mừng “Năm hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2017” và kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.
Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia cũng được thúc đẩy, đem lại những lợi ích cho cả hai nước. Nếu trong những năm từ 1997 - 1999, kim ngạch thương mại hai chiều chỉ đạt khoảng 130 - 150 triệu USD/năm, thì từ năm 2005 - 2009, kim ngạch thương mại hai nước tăng trung bình khoảng 30 - 40%/năm. Giai đoạn 2010 - 2015, tốc độ tăng trưởng trung bình có giảm so với giai đoạn trước, với mức tăng khoảng 18,5%, nhưng giá trị cụ thể cao. Năm 2016, kim ngạch thương mại hai nước đạt 3 tỷ USD. Quý I/2017, kim ngạch hai chiều đạt trên 1 tỷ USD, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm 2016.
Hiện nay, Việt Nam là nhà đầu tư lớn thứ 5 trong tổng số 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Campuchia với 183 dự án, tổng vốn đăng ký là 2,86 tỷ USD. Campuchia có 12 dự án còn hiệu lực đầu tư vào Việt Nam, với tổng vốn đăng ký hơn 54 triệu USD, đứng thứ 49 trên tổng số 103 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Việt Nam cũng là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Campuchia . Tại kỳ họp lần thứ 15 Ủy ban hỗn hợp hai nước tổ chức tại Phnom Penh tháng 3/2017, hai bên nhất trí nâng kim ngạch thương mại hai nước lên 5 tỷ USD trong thời gian tới.