Nhiều chính sách đã được ban hành và tác động tích cực tới quá trình chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo. Trong thời gian tới, chuyển đổi số được xác định là khâu đột phá, là nhiệm vụ quan trọng cần tập trung nguồn lực triển khai để nâng cao chất lượng đào tạo trước yêu cầu, thách thức mới trong xu thế hội nhập quốc tế.
Phát triển nền tảng số dùng chung trong giáo dục
Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn nhằm triển khai ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả. Một số chính sách đã tạo ra hiệu ứng tốt như: Hướng dẫn quản lý, tổ chức đào tạo trực tuyến trong các trường đại học; hướng dẫn mô hình triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong trường phổ thông; văn bản hướng dẫn dạy học trên internet, truyền hình, công nhận kết quả dạy học qua mạng; hướng dẫn sử dụng sổ điểm điện tử, học bạ điện tử; tập huấn giáo viên và tổ chức các hoạt động chuyên môn qua mạng…
Đặc biệt, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng và đưa vào sử dụng chính thức hệ thống cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông với mục tiêu số hóa thông tin quản lý tất cả các đối tượng thuộc phạm vi quản lý. Đến nay, ngành đã số hóa, gắn mã định danh hầu hết các đối tượng cần quản lý. Trong đó, có 53.000 trường học mầm non, phổ thông; gần 24 triệu học sinh được số hóa các thông tin về lý lịch, quá trình học tập, rèn luyện, thể chất...; hơn 1,4 triệu giáo viên được số hóa hồ sơ, trình độ chuyên môn, đánh giá theo chuẩn, lương... Ngoài ra còn số hóa thông tin về cơ sở vật chất, nhà vệ sinh trường học, tài chính, báo cáo chuyên sâu về dạy - học ngoại ngữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã hợp tác với Đề án Tri thức Việt số hóa xây dựng và phát triển kho học hiệu số dùng chung (bao gồm cả học liệu mở) gồm: Bài giảng e-learning (gần 5.000 bài giảng), bài giảng dạy trên truyền hình (hơn 2.000 video bài giảng), 200 thí nghiệm ảo, 35.000 câu hỏi trắc nghiệm, gần 200 đầu sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông, đề án tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng; trên 7.500 luận án tiến sĩ.
Nhấn mạnh những kết quả đáng khích lệ của giáo dục đại học trong công tác chuyển đổi số, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) chia sẻ: 100% cơ sở giáo dục đại học triển khai phần mềm quản lý đào tạo; sinh viên đăng ký học tín chỉ qua mạng. Ngoài ra, các dịch vụ thông tin được cung cấp trực tuyến.
Trong bối cảnh dịch COVID-19, các cơ sở giáo dục đại học đã thực hiện hướng dẫn dạy - học trực tuyến. Công tác tuyển sinh được công khai trên cổng thông tin; website của cơ sở giáo dục đại học. Thí sinh làm thủ tục đăng ký tuyển sinh và thay đổi nguyện vọng theo phương thức trực tuyến. Việc công khai kết quả tuyển sinh, xét tuyển và phần mềm lọc ảo cũng được thực hiện trên nền tảng công nghệ số.
Ông Nguyễn Sơn Hải, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, chuyển đổi số trong giáo dục là chuyển đổi cách dạy, cách học, quản trị và quản lý giáo dục dựa trên công nghệ số, hướng tới một hệ thống giáo dục chất lượng tốt, chi phí thấp và tiếp cận dễ dàng với mọi người dân. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tình trạng các cơ sở giáo dục dùng quá nhiều phần mềm, gây khó khăn cho quản lý và sử dụng hiệu quả. Hạ tầng mạng, các thiết bị sử dụng đầu cuối và việc đảm bảo an toàn thông tin trong ngành giáo dục vẫn còn gặp khó khăn, đặc biệt là các trường học ở vùng sâu, xa, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Để khắc phục được khó khăn này, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Thông tin và Truyền thông đã ký kết hợp tác triển khai chương trình Chuyển đổi số quốc gia. Qua đó, hai Bộ sẽ cùng các doanh nghiệp phát triển nền tảng số dùng chung trong giáo dục; huy động doanh nghiệp chung tay hỗ trợ các nhà trường, giáo viên và học sinh điều kiện để triển khai chuyển đổi số như: Đường truyền internet, phần mềm quản lý, dạy học trực tuyến, trang thiết bị đầu cuối …
Theo Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin Nguyễn Sơn Hải, trong 2 năm tới, số hóa là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục. Các cơ sở dữ liệu toàn quốc về giáo dục - đào tạo sẽ được hoàn chỉnh đầy đủ phục vụ công tác phân tích, dự báo và ra chính sách quản lý ngành. Kho học liệu số, học liệu mở sẽ được xây dựng đầy đủ nội dung theo chương trình giáo dục của tất cả các môn học. Các cơ sở đào tạo phải lên kế hoạch đào tạo trực tuyến và nâng cao tỷ trọng đào tạo trực tuyến; đẩy mạnh, tận dụng tối đa lợi thế công nghệ số nhằm đổi mới các mô hình, cách thức tổ chức dạy học, giúp việc học trở nên dễ dàng hơn với học sinh, nâng cao tính cá thể hóa học tập. Cơ hội học tập được mở rộng đối với học sinh ở khu vực còn khó khăn.
Con người phải thay đổi để thích nghi
Tiến sĩ Tôn Quang Cường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Giáo dục, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội ghi nhận sự sẵn sàng và khả năng chủ động đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia của ngành giáo dục – đào tạo trong thời gian qua. Việc gắn mã định danh cho học sinh, giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục, xây dựng cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ, nhận thức và kĩ năng của đội ngũ… bước đầu tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi số toàn diện trong ngành giáo dục.
Theo Tiến sĩ Tôn Quang Cường, đã đến lúc ngành giáo dục – đào tạo cần đưa ra Khung chuyển đổi số gắn với những chức năng, nhiệm vụ, đặc thù. Quá trình này phải mang tính đột phá, thay đổi căn bản chứ hoàn toàn không phải là việc “tăng cường ứng dụng công nghệ” đơn thuần, càng không phải là quá trình “đổi mới bằng các định dạng số và thiết bị công nghệ” trong hoạt động giáo dục. Trên cơ sở phân tích, dự báo khả quan về xu hướng ứng dụng công nghệ trong quản lí và đào tạo, định hướng chiến lược phát triển và giải pháp cụ thể, kết nối, liên thông hoạt động giữa cơ sở giáo dục các cấp và năng lực của đội ngũ, ngành cần chuẩn bị sẵn sàng để đầu tư, khai thác, thích ứng các lợi ích do công nghệ mang lại.
Giai đoạn 2021 - 2025, Tiến sĩ Tôn Quang Cường khuyến nghị: Cần xây dựng hệ thống văn bản, hướng dẫn thực hiện quá trình chuyển đổi số tạo sự thống nhất chung về nhận thức và hành động trong toàn ngành; thực sự coi chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm; áp dụng linh hoạt, khoa học một số nguyên tắc và tiếp cận số trong hoạt động giáo dục, dạy học theo lộ trình phù hợp.
Để chuyển đổi số thành công, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh: Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo phải bắt đầu từ những người thầy và cán bộ quản lý giáo dục. Trong đó, việc đầu tiên phải tập trung vào đổi mới phương pháp, công nghệ dạy và học, theo hướng lấy người học là trung tâm, là chủ thể của quá trình giáo dục. Đồng thời, việc chuyển đổi số phải gắn với đổi mới quản lý giáo dục theo hướng phục vụ người dân và lấy dữ liệu làm nền tảng. Mọi quyết định về chính sách và về điều hành phải dựa trên phân tích dữ liệu, mang lại lợi ích cho người học và đội ngũ nhà giáo.
Theo Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn, con người phải thay đổi để thích nghi thì chuyển đổi số mới thành công. Bởi lẽ, giờ đây học sinh, sinh viên có quá nhiều kênh thông tin, tài liệu. Người thầy cần phải thay đổi từ việc truyền thụ kiến thức sang chọn lọc và tập hợp kiến thức để xây dựng được chương trình, giáo án; đặc biệt phải làm sao cá thể hóa tới từng học sinh.
"Chúng ta nên tận dụng những công nghệ nền tảng, các công cụ phần mềm sẵn có và bắt đầu chuyển đổi số bằng những việc nhỏ nhưng mang lại tác động lớn. Đó là đổi mới quản lý từng lớp học, đổi mới nội dung từng tiết học, từng bài giảng, tăng tương tác giữa thầy - trò ở trong và ngoài lớp học, làm sao để từng học sinh tham gia tích cực, chủ động hơn vào quá trình học tập. Người thầy hướng dẫn và khuyến khích học sinh tự học, sử dụng các kho học liệu mở và phần mềm miễn phí sẵn có", Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho biết.
Khi học sinh được tương tác nhiều, tiến bộ hơn qua từng tiết học thì sẽ hứng thú và tham gia tích cực hơn, đó là thành công quan trọng bước đầu. Khi nhiều lớp, nhiều trường trong một địa phương cùng làm sẽ có kinh nghiệm chia sẻ và tạo sự lan tỏa mạnh mẽ.
Nhấn mạnh vai trò nguồn nhân lực trong chuyển đổi số, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ từng khẳng định: "Với sự hỗ trợ của công nghệ, phần mềm hiện đại, rất nhiều hoạt động giáo dục truyền thống sẽ dần được thay bởi phần mềm, công nghệ mô phỏng... Kết nối giáo dục sẽ được mở rộng, không chỉ trong nước mà ra toàn cầu. Chúng ta muốn đi xa, chắc chắn thì phải trang bị kỹ năng về chuyển đổi số một cách căn cơ theo các cấp bậc học. Hiệu quả kết nối, phát triển nguồn nhân lực đặt ra yêu cầu ngành giáo dục phải rà soát, xây dựng chuẩn kỹ năng số cho các cấp bậc".
Ngành giáo dục và đào tạo rất ý thức việc phải xây dựng một đội ngũ nhân lực để thực hiện chuyển đổi số. Các trường đại học rà soát để mở mã ngành chưa có trong truyền thống, để phục vụ ứng dụng tiến bộ công nghệ thông tin, đào tạo ra các kỹ sư chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. Đồng thời, ngành thực hiện tốt các hoạt động liên quan đến chuyển đổi số để từng công dân được tiếp cận, làm quen, rèn luyện bài bản. Từ đó, Việt Nam sẽ có những thế hệ tốt về kỹ năng chuyển đổi số, công nghệ thông tin, ngoại ngữ để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng hội nhập quốc tế và đáp ứng tốt yêu cầu của thời đại mới.