Kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ 'cải tổ' giáo dục đào tạo

Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nhân dịp này, Giáo sư - Tiến sĩ khoa học (GS.TSKH) Nguyễn Đình Đức, nguyên Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời là nhà khoa học Việt Nam nằm trong tốp 100 nhà khoa học hàng đầu thế giới lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ đã có cuộc trò chuyện với phóng viên TTXVN về những điểm nổi bật của Nghị quyết này để giáo dục - đào tạo thực sự là một trong những trụ cột để phát triển đất nước.

Chú thích ảnh
Tập thể giáo viên, giảng viên Khoa CNTT (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) không ngừng đổi mới chương trình và phương thức đào tạo để sinh viên ra trường đáp ứng được yêu cầu công việc. Ảnh tư liệu: Thanh Tùng/TTXVN

Đột phá về tư duy và quyết tâm thay đổi mạnh mẽ thể chế

Thưa GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, ông có thể chia sẻ về những điểm đột phá nổi bật nhất trong Nghị quyết 71-NQ/TW vừa được ban hành, so với các nghị quyết, chính sách giáo dục trước đây?

Theo tôi, điểm đột phá ấn tượng nhất trong văn kiện lần này là đột phá về tư duy, nhận thức và quyết tâm thay đổi mạnh mẽ thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.

Chính sự nhận thức này là gốc rễ, nền tảng cho những đổi mới. Nghị quyết chỉ ra rất rõ để giáo dục và đào tạo có sự phát triển đột phá trong kỷ nguyên mới, thì các luật, chính sách nhất định phải thay đổi theo. Đổi mới thể chế với tư duy theo hướng thay vì quản lý, phải kiến tạo - với những cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội để các nhà trường, các cơ sở giáo dục và đào tạo có thể thu hút được mọi nguồn lực, cả hữu hình và vô hình cho sự phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo và sự tăng trưởng của nhà trường, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế.

Từ Nghị quyết này có thể thấy, Đảng và Nhà nước ta đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm dành sự quan tâm đặc biệt và kỳ vọng rất lớn với lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Đến 2035 phải có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học có những lĩnh vực được xếp hạng top 100 thế giới; đến 2045 Việt Nam vào top 20 quốc gia có nền giáo dục công bằng, hiện đại nhất thế giới.

Tôi cũng đặc biệt ấn tượng, hoàn toàn nhất trí và rất đồng tình với chủ trương ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học. Nghị quyết 71 khẳng định bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi rất tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. Những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học, tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, một số hạn chế kìm hãm và ràng buộc. Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết và Nghị quyết 71 này thực sự sẽ là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học.

Nghị quyết này cũng thay đổi căn bản tư duy về đầu tư tài chính cho giáo dục đại học: tới tầm và vượt trội; thiết thực chăm lo cho đội ngũ giảng viên, hỗ trợ tài chính và tạo cơ hội học tập cho mọi người.

Cộng hưởng với Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 71 quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới - đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới để trở thành nòng cột và đầu tàu đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Đây là tư tưởng chỉ đạo rất đúng và trúng trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 phát triển mạnh mẽ như vũ bão như hiện nay.

Nghị quyết cũng chỉ đạo khẩn trương thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường; đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng các công nghệ hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo có đạo đức và trách nhiệm trong nền giáo dục hiện đại và văn minh. Đây là những điểm đổi mới rất mạnh dạn, quyết liệt với tầm nhìn xa trông rộng, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội.

Một cách thẳng thắn và tổng thể: Nghị quyết 71 chính là Nghị quyết cải tổ giáo dục và đào tạo.

Với giáo dục đại học, để đưa Nghị quyết 71 vào thực tế, khó khăn, thách thức lớn nhất hiện nay là gì, thưa Giáo sư?

Khó khăn thách thức nhất để đưa Nghị quyết 71 vào thực tế chính là đổi mới tư duy - thay vì quản lý hành chính phải kiến tạo, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà trường, cho đội ngũ nhà giáo và cho người học; phải thay đổi phương thức quản trị và thể chế. Để Nghị quyết 71 đi vào cuộc sống, chúng ta phải đổi một loạt các luật như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp, cũng như một loạt các luật và nghị định khác liên quan đến lĩnh vực giáo dục đào tạo, liên quan đến nhà trường và nhà giáo như tài chính, đầu tư, chế độ chính sách, tuyển dụng, bổ nhiệm giảng viên.

Muốn đổi mới, muốn có chất lượng và hội nhập với chuẩn mực và trình độ quốc tế, các cơ sở giáo dục phải có đủ nguồn lực và tự chủ toàn diện. Nếu tự chủ không được triển khai mạnh mẽ, nửa vời, thì các trường đại học không thể cất cánh phát triển bứt phá được và Nghị định 71 cũng như Nghị quyết 57 không thể thành công như mong đợi. Vì vậy, không thể tiếp cận xây dựng các văn bản luật và nghị định liên quan đến giáo dục với tư duy bảo thủ, lạc hậu, quản lý hành chính như trước đây.

Thách thức không nhỏ là tiềm lực đội ngũ. Đổi mới sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học, cần thu hút bằng được các nhân tài, các nhà giáo, nhà khoa học có trình độ cao, xuất sắc ở trong và ngoài nước. Đây là một bài toán lớn của các trường đại học, của giáo dục đại học Việt Nam.

Bên cạnh đó, khoa học cơ bản là khó, nhưng lại là nền tảng gốc rễ của tri thức và công nghệ. Vì vậy, giáo dục đại học Việt Nam dẫu có đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược - bứt phá đến đâu chăng nữa thì vẫn phải luôn kiên trì với mục tiêu đào tạo nền tảng khoa học cơ bản thật vững chắc. Đồng thời, phải vượt qua những rào cản về ngoại ngữ; chấn chỉnh, đổi mới công tác tuyển sinh và xét tuyển để nâng cao chất lượng đầu vào đại học.

Cuối cùng, tôi cho rằng, một thách thức không nhỏ là phải vượt qua được những trở ngại và rào cản về tâm lý của bệnh thành tích đang tồn tại bấy lâu nay. Giáo dục phải chỉn chu, bài bản và mẫu mực; đánh giá phải thực chất để đào tạo con người toàn diện, “thực học, thực tài”.

Giải pháp căn cơ để Việt Nam có đại học lọt top 100 thế giới

Nghị quyết 71 đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á. Theo Giáo sư, để hiện thực hóa mục tiêu này, cần sự thay đổi đột phá nào về cơ chế chính sách và mô hình quản trị đại học cũng như chương trình đào tạo?

Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động, có Nghị quyết 71 để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.

Để đạt được mục tiêu này, theo tôi, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực khoa học công nghệ trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao, năng lực nghiên cứu xuất sắc mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu với đổi mới sáng tạo, với doanh nghiệp, đồng thời phải luôn nung nấu hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước.

Cùng với đó, phải chăm lo cơ sở vật chất, đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại trong các trường đại học. Với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng những trường có lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.

Một yếu tố vô cùng quan trọng nữa là đổi mới quản trị đại học. Để phát triển bứt phá, các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. Kinh nghiệm về tự chủ đại học của Nhật Bản bắt đầu từ năm 2004 là một bài học quý: Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và Đại học Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới, sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập. Tự chủ đại học là cơ chế nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp.

Tôi cho rằng, nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới.

Vậy theo Giáo sư, các chương trình, đề án đào tạo giảng viên và chế độ đãi ngộ dành cho đội ngũ giảng viên, nhà khoa học cần được đầu tư và triển khai như thế nào trong thời gian tới?

Trước hết, ngay từ khâu tuyển dụng phải lựa chọn được những giảng viên đại học giỏi, được đào tạo bài bản và có năng lực giảng dạy, nghiên cứu tốt, có năng lực thích ứng, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Các cơ sở giáo dục đại học cần có kế hoạch cho giảng viên thường xuyên đi trao đổi, thực tập, nâng cao trình độ ở ngoài nước và ở những đại học lớn, trọng điểm trong nước.

Nhà trường cũng cần xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu quốc tế, có sự tham gia của các nhà khoa học đầu ngành, các tiến sĩ trẻ và các nghiên cứu sinh. Nhóm nghiên cứu chính là tế bào của hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức và công nghệ trong trường đại học.

Bên cạnh đó, các trường cần có kế hoạch quy hoạch và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành, đầu đàn - đội ngũ cán bộ có trình độ giáo sư, phó giáo sư trong nhà trường; xây dựng các chương trình khoa học công nghệ, hỗ trợ các nhà giáo gắn kết mô hình 4 nhà: Nhà nước, nhà trường, nhà khoa học và doanh nghiệp để triển khai thực hiện các đề tài khoa học công nghệ - phát huy năng lực nghiên cứu và ứng dụng, đổi mới sáng tạo của đội ngũ giảng viên và nghiên cứu sinh trong trường đại học.

Chúng ta cũng cần thực hiện đào tạo tiến sĩ theo hình thức chính quy toàn thời gian và cấp học bổng, sinh hoạt phí cho nghiên cứu sinh; cần mở hệ đào tạo thực tập sinh sau tiến sĩ (postdoc). Đồng thời, triển khai đề án đào tạo tài năng và giữ lại sinh viên thủ khoa, sinh viên xuất sắc để tạo nguồn, đào tạo họ trở thành các giảng viên ưu tú trong tương lai.

Và điều quan trọng, muốn giáo dục và khoa học công nghệ phát triển, trở thành động lực quan trọng nhất phát triển đất nước thì nhà giáo, nhà khoa học phải được xã hội tôn trọng và tôn vinh, phải được đãi ngộ xứng đáng, vượt trội, đủ để tái sản xuất sức lao động và đảm bảo cuộc sống gia đình, họ mới yên tâm công tác và cống hiến.

Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Việt Hà/TTXVN (thực hiện)
Nghị quyết 71 - Chìa khóa bứt phá cho giáo dục và đào tạo
Nghị quyết 71 - Chìa khóa bứt phá cho giáo dục và đào tạo

Thay mặt Bộ Chính trị, ngày 22/8, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký, ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết 71).

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ

Các đơn vị thông tin của TTXVN