Bên cạnh việc bổ sung một số nội dung chưa có trong Quy định số 260-QĐ/TW thì Quy định số 41-QĐ/TW chứa đựng nhiều điều mới mẻ như nguyên tắc “không thực hiện việc cho từ chức đối với cán bộ thuộc trường hợp phải miễn nhiệm”; đưa nội dung “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" vào Căn cứ xem xét miễn nhiệm; nêu cụ thể 6 trường hợp miễn nhiệm, 4 trường hợp xem xét cán bộ từ chức; quy trình xem xét miễn nhiệm, từ chức gói gọn trong thời gian 10 ngày làm việc; hồ sơ miễn nhiệm, từ chức có những điểm mới; cán bộ từ chức có thể được xem xét bổ nhiệm, quy hoạch sau khi sửa chữa khuyết điểm… Nội dung Quy định số 41-QĐ/TW cho thấy Đảng ta rất rạch ròi, kiên quyết trong xử lý cán bộ sai phạm, nhưng cũng rất nhân văn.
"Tự diễn biến" là căn cứ miễn nhiệm
Theo Quy định số 41-QĐ/TW, miễn nhiệm là việc cấp có thẩm quyền quyết định cho cán bộ thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm, còn từ chức là việc cán bộ tự nguyện xin thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm.
Sự khác biệt giữa miễn nhiệm và từ chức không chỉ nằm ở tính khách thể hay chủ thể - “cho thôi giữ chức vụ” và “xin thôi giữ chức vụ”. Hai khái niệm này rất xa nhau về bản chất và được nêu ra rất rạch ròi, cụ thể trong phần Căn cứ xem xét của quy định mới.
Điều 5 (Chương I) của Quy định số 41-QĐ/TW nêu rõ: Căn cứ xem xét miễn nhiệm là bị kỷ luật cảnh cáo hoặc khiển trách nhưng uy tín giảm sút không thể đảm nhiệm chức vụ được giao; bị kỷ luật khiển trách hai lần trở lên trong cùng một nhiệm kỳ hoặc trong thời hạn bổ nhiệm; có trên 2/3 số phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ lấy phiếu theo quy định; có hai năm liên tiếp được xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ; bị cơ quan có thẩm quyền kết luận suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; vi phạm những điều đảng viên không được làm; vi phạm trách nhiệm nêu gương, ảnh hưởng xấu đến uy tín của bản thân và cơ quan, đơn vị nơi đang công tác; bị cơ quan có thẩm quyền kết luận vi phạm tiêu chuẩn chính trị theo quy định về bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng đến mức phải miễn nhiệm.
Trong khi đó, Điều 6 (Chương I) quy định căn cứ xem xét từ chức như sau: Do hạn chế về năng lực hoặc không còn đủ uy tín để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; để cơ quan, đơn vị mình quản lý, phụ trách xảy ra sai phạm nghiêm trọng; có trên 50% số phiếu tín nhiệm thấp tại kỳ lấy phiếu theo quy định; vì lý do chính đáng khác của cá nhân.
Nội dung của Quy định số 41-QĐ/TW không tạo ra khe hở, dù là nhỏ nhất, cho sự mập mờ ranh giới giữa “bị bãi miễn” và “xin từ chức”. Ngoài sự yếu kém về năng lực quản lý, giảm sút uy tín thì cán bộ bị bãi miễn còn bị cơ quan có thẩm quyền kết luận là có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Trong khi đó, cán bộ xin từ chức có thể còn do lý do riêng tư (được coi là chính đáng).
Việc quy định rõ “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" vào Căn cứ xem xét miễn nhiệm tại Quy định số 41-QĐ/TW cho thấy Đảng ta nhận thức rất sâu sắc về một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ở Việt Nam.
Trong các văn kiện của Đảng ta, bắt đầu từ Đại hội lần thứ XI, “tự diễn biến” được hiểu là sự suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. “Tự chuyển hóa” có nghĩa là sự biến đổi về lập trường, quan điểm, tư tưởng, thái độ, hành vi, lối sống của cán bộ, đảng viên. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (tháng 10/2021) đã đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”.
“Tự chuyển hóa” là hệ quả tất yếu, sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến”, là quá trình biến đổi về chất các quan điểm, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một tổ chức và cá nhân. “Tự chuyển hóa” chính là quá trình thay đổi về chất trong quan điểm, tư tưởng, phẩm chất và hành động của chủ thể. Đây là cấp độ cao hơn của quá trình “tự diễn biến”, là biểu hiện sự thay đổi về chất của quan điểm chính trị, đạo đức, lối sống khiến cho cán bộ, đảng viên đánh mất vai trò tiên phong, gương mẫu, thậm chí làm những việc đi ngược lại Điều lệ Đảng và lợi ích dân tộc.
Một điều đáng lưu ý nữa là Quy định số 41-QĐ/TW có nhắc đến rất rõ ràng về việc bố trí công tác đối với cán bộ sau khi từ chức (Điều 10, Chương III).
Theo đó, cán bộ sau khi từ chức nếu có nguyện vọng tiếp tục công tác thì cấp có thẩm quyền có thể căn cứ vào năng lực, đạo đức, kinh nghiệm để xem xét, bố trí công tác phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; cán bộ đã từ chức và bố trí công tác khác, nếu được cấp có thẩm quyền đánh giá tốt, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện và khắc phục được những yếu kém, sai phạm, khuyết điểm thì có thể được xem xét để quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy định.
Điểm mới này thể hiện sự nhân văn trong chính sách của Đảng ta là không định kiến, không đóng sập vĩnh viễn mọi cánh cửa đối với những người đã nhìn ra khuyết điểm của mình và nỗ lực khắc phục yếu kém để một lần nữa đủ điều kiện được xem xét đưa vào diện quy hoạch, bổ nhiệm.
Từ chức – không phải muốn là được
“Hạ cánh an toàn” là cách nói trong dân gian đã có từ rất lâu ở nước ta về hiện tượng người có chức, có quyền sau khi trở lại làm dân thường (nghỉ hưu) thì không phải chịu trách nhiệm về những sai phạm khi đang công tác. Gần đây, khái niệm này còn được dùng để chỉ một số cán bộ quản lý có sai phạm, đã chủ động xin thôi giữ chức vụ khi chưa đến tuổi nghỉ hưu hay chưa hết nhiệm kỳ công tác, chưa hết thời hạn được bổ nhiệm.
Mặc dù “văn hóa từ chức” đang được kêu gọi xây dựng ở nước ta, song không phải trường hợp từ chức nào cũng được hoan nghênh, cán bộ nào từ chức cũng được chấp nhận. Giờ đây, từ chức cũng không còn là điều dễ dàng đối với những cán bộ muốn mượn cách “hạ cánh” để “né” án kỷ luật, chối bỏ trách nhiệm về những sai phạm của mình.
Điều 3 (Chương I) của Quy định số 41-QĐ/TW nêu ra các nguyên tắc của việc miễn nhiệm, từ chức. Trong đó, nguyên tắc thứ ba là “Kiên quyết, kịp thời xem xét cho miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ khi có đủ căn cứ. Không thực hiện việc cho từ chức đối với cán bộ thuộc trường hợp phải miễn nhiệm”.
Trong cùng một nguyên tắc, ý thứ nhất (kiên quyết cho miễn nhiệm, từ chức) không hề “làm khó” ý thứ hai (không cho từ chức khi phải miễn nhiệm).
Trái lại, hai ý này bổ sung cho nhau, thể hiện rằng Đảng ta hiện nay chủ trương cương quyết xử lý những những cán bộ vi phạm kỷ luật, không để “hạ cánh an toàn”. Đây vừa là quyết tâm chính trị, vừa là sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, sự thượng tôn của pháp luật. Điều đó giúp củng cố niềm tin trong nhân dân và là tiếng chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với những người đứng trước nguy cơ sa ngã, làm trong sạch hàng ngũ cán bộ, đảng viên.
Sự quyết liệt trong đấu tranh với những sai phạm của cán bộ được thể hiện trong quy định mới của Bộ Chính trị cho thấy, từ nay sẽ rất khó có chuyện lấy việc từ chức để thay thế cho việc bị miễn nhiệm – hai sự việc dù có một vài biểu hiện có thể gây ra sự mơ hồ, lẫn lộn, nhưng thực ra lại khác nhau về bản chất.
Trong một thời gian dài trước đây, những cán bộ có nhiều sai phạm đã không bị xử lý sau khi về hưu hay thôi đảm đương chức vụ, hoặc nếu bị xử lý thì cũng chưa thực sự nghiêm minh. Tình trạng này góp phần làm cho vấn đề đạo đức và luật pháp bị xem nhẹ.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng có 113 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị thi hành kỷ luật, thậm chí một số cán bộ bị xử lý hình sự.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ rõ: "Nhắc đến những con số này, chúng ta thật buồn. Chúng ta rất nhân văn, nhân đạo, nhân ái, nhân tình; không thích thú gì khi phải kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình, trái lại rất khổ tâm, đau xót. Nhưng vì sự tiến bộ chung, vì để mong nhiều người không mắc sai phạm, chúng ta phải kỷ luật; kỷ luật một vài người để cứu muôn người".