Chưa xác định rõ về trình độ và văn bằng
Khẳng định vẫn còn một số bất cập cần sửa đổi và quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6; TS. Nguyễn Minh Lợi, Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo (Bộ Y tế), thành viên Tổ tư vấn đổi mới của Bộ Y tế cho biết: Với mục tiêu cuối cùng là người dân Việt Nam sẽ được hưởng một nền y tế tiên tiến với đội ngũ cán bộ y tế có chất lượng, đảm bảo hội nhập quốc tế; việc sửa đổi này có ý nghĩa rất lớn vì đây là cơ hội lịch sử, nếu không sẽ làm chậm sự phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam thêm ít nhất là 10 năm nữa.
Theo TS. Nguyễn Minh Lợi, kết quả các cuộc thảo luận và nghiên cứu dự thảo cho thấy vẫn còn một số vấn đề liên quan đến đào tạo nhân lực y tế mà Ban soạn thảo chưa thể hiện được tính nhất quán, đồng bộ trong đó có nội dung rất quan trọng của Luật là về trình độ và văn bằng giáo dục đại học.
Cụ thể, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, để trở thành bác sĩ hành nghề chuyên môn, sau khi hoàn thành chương trình đào tạo 6 năm ở trường đại học, người học còn phải đào tạo chuyên khoa, chuyên sâu và thường xuyên đào tạo cập nhật, phát triển nghề nghiệp. Nhưng trong thời gian 6 năm học tập để trở thành bác sĩ, không giống như các chương trình cử nhân khác, chương trình đào tạo bác sĩ bao gồm các hợp phần, nội dung thực hành và các giai đoạn trải nghiệm công việc trực tiếp tại các cơ sở y tế dựa trên các nền tảng lý thuyết. Y học là nhân học nên nội dung chương trình phức tạp hơn nhiều, thời gian dài hơn so với các chương trình cử nhân 4 năm, và thường có định hướng chuyên nghiệp và chuyên môn sâu hơn so với các chương trình cử nhân của các ngành khác.
Chương trình đào tạo và năng lực của chuyên khoa và chuyên khoa sâu (ở Việt Nam hiện nay là đào tạo chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 và Nội trú) cũng khác hẳn chương trình và năng lực đầu ra của thạc sĩ, tiến sĩ. Theo hệ thống trình độ đào tạo và văn bằng của nhiều nước trên thế giới, thường theo hai định hướng đào tạo là hướng hàn lâm (academic) và hướng chuyên nghiệp (professional). Trong đó, đào tạo bác sĩ đi theo hướng chuyên nghiệp nhưng trình độ đào tạo và văn bằng giáo dục đại học (bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa sâu gồm chuyên khoa 1, chuyên khoa 2); đối với những đối tượng này không thể hòa cùng với trình độ và văn bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Tuy nhiên, điều này chưa được thể hiện trong Dự thảo Luật, và rất cần thiết phải được đưa vào.
Đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo nhân lực ngành y tế, còn có những trình độ thuộc giáo dục đại học mà không phải là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Cụ thể như các chương trình đào tạo bác sĩ, chuyên khoa, chuyên khoa sâu sau đào tạo bác sĩ chưa được xác định là tương đương với chương trình đào tạo của trình độ nào? Quy định ở đâu? Các chương trình đào tạo này không thể tương đương với chương trình cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ vì đây là theo định hướng đào tạo chuyên sâu nên phải quy định trình độ cụ thể như các nước đã làm. Nếu không quy định về trình độ cụ thể cho đối tượng đào tạo nhân lực này trong Luật thì việc giao Chính phủ quy định về xác định chỉ tiêu, thời gian đào tạo… như ở Điều 73 của Dự thảo Luật chỉ làm rối hệ thống thêm mà không giải quyết được việc nâng cao chất lượng nhân lực ngành y tế.
Đây cũng là nội dung Bộ Y tế đã có ý kiến nhiều lần, để khắc phục có thể ghi rõ trong Điều 6 là "Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học quy định tại Luật này bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ, trình độ chuyên gia", Điều 38 là "Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân gồm: bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ, bằng chuyên gia", và quy định tại Điều 73 là "...trình độ, văn bằng, chứng chỉ đào tạo chuyên gia phù hợp"...
Không để chậm thêm 10 năm
TS. Nguyễn Minh Lợi cũng cho rằng: Không chỉ vấn đề trình độ, văn bằng, Luật sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục đại học cũng còn một số nội dung cần làm rõ thêm như: Về phân loại cơ sở giáo dục đại học, theo quy định tại Khoản 4, Điều 7 xác định Cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu hoặc Cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng... điều đáng lo ngại là các cơ sở giáo dục đại học chuyên về lĩnh vực y tế không biết sẽ xác định đi theo định hướng nào vì trong đào tạo y khoa là đào tạo song song theo cả hai hướng hàn lâm và chuyên nghiệp. Vì vậy cần xem lại quy định này có khả thi không trong khi việc phân tầng các cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng theo Luật Giáo dục đại học 2012 đã không triển khai được trong thực tiễn.
Về quản lý nhà nước, quản trị và tự chủ giáo dục đại học, trong dự thảo Luật có tới 10 cụm từ "cơ quan có thẩm quyền", cần làm rõ đó là cơ quan hay những cơ quan cụ thể nào? Luật cũng cần có những quy định về vai trò của các cơ quan chuyên ngành, đặc biệt là ngành y tế vì quá trình học tập là gắn liền với các cơ sở y tế, đòi hỏi phải tuân thủ các quy định chuyên môn theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm, Luật Dược... Các quy định về chuẩn chương trình, kiểm định chất lượng, tổ chức đào tạo, giảng viên phải vừa phù hợp với nguyên lý giáo dục vừa phù hợp với yêu cầu chuyên môn để không ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ y tế. Nếu không quy định rõ, sinh viên sẽ chỉ được học chay, không gắn trách nhiệm của các cơ sở y tế với việc tham gia đào tạo (vì đó không phải là nhiệm vụ chính của họ)... điều này dễ dẫn đến những hậu quả đáng lo ngại, nhất là trong bối cảnh mở trường, mở ngành trong đào tạo y tế nở rộ như hiện nay.
Cũng theo TS. Nguyễn Minh Lợi, vấn đề đào tạo nhân lực y tế là vấn đề liên ngành quy định về đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì theo Luật Giáo dục đại học; hoạt động chuyên môn y tế do Bộ Y tế chủ trì theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh và các luật chuyên ngành; tài chính (chi phí cho đào tạo, thù lao cho giảng viên và người học tại bệnh viện...) do Bộ Tài chính chủ trì theo Luật về giá, Luật về phí... Chính vì vậy, cần được thể chế hóa một cách rõ ràng, hướng tới mục tiêu cuối cùng là người dân được hưởng nền y tế có đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, có chất lượng, xây dựng pháp luật là để phục vụ đời sống kinh tế- xã hội chứ không phải phục vụ cho cá nhân, bộ ngành nào. Nếu không sửa đổi cho phù hợp thì ít nhất 10 năm nữa mới có thể xem xét lại, và như vậy hệ thống y tế có nguy cơ sẽ có những thế hệ đào tạo không đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, chưa thể hội nhập.