Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo Cục Quản lý tài nguyên nước cùng với các cơ quan, đơn vị chức năng phối hợp với các địa phương liên quan cùng Tổ soạn thảo rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpôk trong mùa lũ và mùa cạn; cập nhật, bổ sung các thông tin, diễn biến về nguồn nước, khí tượng thủy văn trên lưu vực sông Srêpôk, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu…
Rà soát vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpôk
Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpôk (gồm các hồ Buôn Tua Srah, Buôn Kuốp, Srêpôk 3, Srêpôk 4 và Srêpôk 4A) được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 624/QĐ-TTg ngày 26/4/2011. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTg ngày 23/7/2014 về Quy trình vận hành liên hồ trong cả năm, gồm cả mùa lũ và mùa cạn, trong đó về cơ bản các quy định vận hành trong mùa lũ được kế thừa từ Quy trình vận hành ban hành năm 2011.
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy cho biết: Sau gần 8 năm vận hành theo Quy trình, việc phối hợp vận hành của các hồ chứa lớn trên lưu vực sông Srêpôk góp phần quan trọng trong việc giảm lũ cho hạ du, đồng thời bảo đảm nguồn nước cấp cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, kết quả rà soát, tổng kết quá trình vận hành liên hồ chứa thời gian qua cho thấy, một số vấn đề cần được xem xét điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với tình hình mới, đồng thời, từng bước nâng cao hiệu quả phối hợp vận hành các hồ trong việc cắt, giảm lũ và cấp nước cho hạ du.
Cụ thể, một số hồ thủy lợi, thủy điện đưa vào vận hành nằm trên dòng chính sông Srêpôk và dòng nhánh có khả năng điều tiết nước và ảnh hưởng đến cấp nước hạ du, nhất là trong mùa cạn; chưa quy định các tình huống vận hành giảm lũ cho hạ du cụ thể trong thời gian ngoài mùa lũ. Các tình huống bất thường trong mùa lũ và mùa cạn chưa được quy định cụ thể; các chế độ vận hành, thẩm quyền chỉ đạo, quyết định vận hành hồ, trách nhiệm tổ chức vận hành và cung cấp thông tin báo cáo trong mùa lũ cũng như mùa cạn được quy định phân tán trong nhiều điều, khoản trong Quy trình; lưu lượng, chế độ xả, thời gian xả nước của các hồ trong mùa cạn cần được điều chỉnh nhằm đảm bảo phù hợp với nhu cầu, phương thức và chế độ khai thác…
Do vậy, việc rà soát tình hình vận hành thực tế các hồ chứa thời gian qua nhằm từng bước hoàn thiện Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpôk là cần thiết và cấp bách, nhất là trong điều kiện biển đổi khí hậu, tình trạng lũ lụt, hạn hán, thiếu nước đang ngày càng gia tăng, biến đổi khó lường.
Điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện Quy trình
Về cơ bản, Dự thảo Quy trình được giữ nguyên như Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpôk tại Quyết định số 1201/QĐ-TTg gồm 4 Chương, 34 điều, trong đó bổ sung thêm 5 điều mới và cập nhập, bổ sung một số nội dung quy định tại các điều còn lại để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất.
Góp ý để hoàn chỉnh Dự thảo Quy trình, ông Nguyễn Đức, Phó Giám đốc, Công ty Thủy điện Buôn Kuốp cho rằng: Cần xem xét điều chỉnh về lưu lượng xả tương đương nên tăng khoảng 10% tại Điểm a, Khoản 1, Điều 8 so với quy định đề xuất tại Dự thảo “Vận hành duy trì mực nước hồ: là quá trình vận hành điều tiết xả nước với lưu lượng xả tương đương (+/-5%) với lưu lượng đến hồ nhằm duy trì mực nước hồ hiện tại”.
Cùng chung quan điểm, ông Hoàng Minh Tuyển, chuyên gia tài nguyên nước cho biết: Cần xem xét Điểm d, Khoản 2, Điều 8 về thực hiện chế độ vận hành tích nước cuối mùa lũ nhằm phù hợp với nhận định xu thế diễn biến thời tiết, thủy văn của Tổng Cục Khí tượng thủy văn. Đồng thời, tại Điều 9 của Quy trình quy định việc vận hành giảm lũ cho hạ du đối với hồ Buôn Tua Srah, đề nghị xem xét quan trắc mực nước cả Trạm Thủy văn Bản Đôn và Trạm Thủy văn Đức Xuyên để có sự phối hợp giữa các hồ với nhau.
Đại diện Văn phòng Chính phủ và Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Cục Quản lý tài nguyên nước lại cho rằng nên xem xét Điều 34, 35, 36 và thống nhất một đầu mối là Tổng cục Khí tượng Thủy văn để có cơ sở chỉ đạo, phân công các đơn vị trong thực hiện quan trắc, dự báo và trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu. Đồng thời, hoàn chỉnh hồ sơ, phiếu trình Thủ tướng Chính phủ đúng thời hạn quy định, đảm bảo tuyệt đối an toàn hồ đập, chú ý đến các thông số. Ngoài ra, vấn đề website chung cho các hồ chứa, từng lưu vực sông cần sớm hình thành để chủ hồ, đơn vị quản lý và vận hành hồ chứa nhập thông tin, dữ liệu báo cáo một cách thuận lợi.