Từng bước hoàn thiện khung pháp lý
Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH, CN, ĐMST) năm 2025 đã tạo ra nền tảng vững chắc và mang tính đột phá để thu hút nhân tài, thúc đẩy phát triển KH, CN, ĐMST và chuyển đổi số (CĐS). Luật được xây dựng bám sát các quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KH, CN, ĐMST trong tình hình mới.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng, trao quyền cho nhà khoa học về sở hữu trí tuệ, tài chính, quyền khai thác thương mại, đồng thời cho phép cơ chế đãi ngộ linh hoạt, kể cả vượt khung lương. Luật cũng đưa ra chính sách tài chính và phi tài chính nhằm thu hút nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là chuyên gia người Việt ở nước ngoài.
Quốc hội cũng thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số, cụ thể hóa các chính sách phát triển, trong đó ưu đãi cho ngành bán dẫn, đặt nền tảng pháp lý cho trí tuệ nhân tạo và tài sản số.
Các luật mới mở ra cơ chế "vượt khung", nhưng mức độ cụ thể và phạm vi áp dụng thực tiễn sẽ cần được quy định rõ trong các văn bản hướng dẫn triển khai. Đại diện Bộ đánh giá các quy định mới chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi có nghị định, thông tư hướng dẫn, đảm bảo đồng bộ các quy định khác như Luật Ngân sách, Luật Viên chức... với trình tự thủ tục đơn giản, linh hoạt. Các quy định sẽ không phát huy hiệu quả nếu trình tự, thủ tục còn rườm rà, thiếu linh hoạt.
Ông Mai Ánh Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ thông tin về cơ chế thu hút nhân tài đang được hoàn thiện.
Ông Mai Ánh Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (TCCB) cho biết, Bộ KH&CN đang tích cực triển khai Chiến lược thu hút nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Mặc dù có những cải thiện, nhưng mức độ đãi ngộ tài chính cho nhà khoa học tại Việt Nam chưa cạnh tranh so với các quốc gia phát triển. Các yếu tố phi tài chính như môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, cơ sở vật chất, văn hóa làm việc, cơ hội phát triển sự nghiệp là những yếu tố quan trọng cần được cải thiện đồng bộ.
Bên cạnh đó, cơ chế đãi ngộ linh hoạt, vượt khung nhưng còn mang tính nguyên tắc. Các Luật mới mở ra cơ chế "vượt khung" nhưng mức độ cụ thể và phạm vi áp dụng của cơ chế này trong thực tiễn cần được quy định rõ trong các văn bản hướng dẫn triển khai, thực hiện Luật.
Cơ chế, chính sách thu hút nhân tài
Ông Mai Ánh Hồng cho biết: Bộ KH&CN xác định trong KH, CN, ĐMST, CĐS, nhân lực chất lượng cao, nhân tài là yếu tố quyết định, không thể thu hút bằng chính sách cứng nhắc. Việc vượt khung lương, cấp nhà ở, điều kiện làm việc... không nên xem là "đặc ân", mà là điều kiện tối thiểu để những người có khả năng tạo đột phá yên tâm làm việc.
Thu hút nhân tài trong nghiên cứu khoa học công nghệ có vai trò then chốt. Ảnh: TTXVN
Để cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 57, Luật KH, CN, ĐMST, Luật CNCNS, Bộ KH&CN tập trung xây dựng và ban hành các quy định cụ thể về cơ chế chấp nhận rủi ro; cơ chế tự chủ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển công nghiệp bán dẫn; chính sách thu hút, sử dụng và trọng dụng đối với nhân tài, nhân lực chất lượng cao và quy định về phân chia lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
Bộ KH&CN đã xây dựng, tổ chức triển khai Đề án "Phát triển, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển KH,CN, ĐMST và CĐS quốc gia"; phát triển các chương trình quốc gia có mục tiêu cụ thể để thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về làm việc, cũng như các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm.
"Các chương trình này có thể bao gồm gói hỗ trợ tài chính đặc biệt, điều kiện làm việc ưu việt và cơ hội phát triển sự nghiệp rõ ràng", ông Mai Ánh Hồng nêu rõ.
Hạ tầng và môi trường nghiên cứu cũng được Bộ KH&CN đầu tư với việc nâng cấp các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, xây dựng các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ. Bộ thúc đẩy liên kết giữa nghiên cứu và doanh nghiệp (DN) thông qua khuyến khích mạnh mẽ các DN đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để ứng dụng kết quả khoa học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; phát triển thị trường cho các sản phẩm khoa học và công nghệ.
Bên cạnh đó, lãnh đạo Vụ TCCB cho biết, Bộ KH&CN sẽ đẩy mạnh hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam tham gia vào các dự án quốc tế, các mạng lưới nghiên cứu toàn cầu, đồng thời thu hút các tập đoàn công nghệ lớn đặt trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.
Các rào cản hành chính sẽ được Bộ giảm thiểu, bảo đảm quyền tự chủ tối đa cho nhà khoa học; cung cấp nguồn lực (tài chính, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu) cho hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm. Cùng với đó, thay vì nặng về quy trình, công tác đánh giá được Bộ thực hiện dựa trên hiệu quả và sản phẩm tập trung vào kết quả đầu ra, các công bố quốc tế, bằng sáng chế, sản phẩm thương mại hóa có giá trị.
Ông Mai Ánh Hồng cho rằng: “Các cơ chế, chính sách mới, đặc biệt là Luật KH,CN và ĐMST, Luật Công nghiệp công nghệ số được kỳ vọng sẽ tạo ra môi trường thực sự hấp dẫn, là tiền đề quan trọng để thu hút, giữ chân và phát huy tối đa tiềm năng của nhân tài, mang lại những đột phá chiến lược cho các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn của Việt Nam”.
Còn theo ông Trần Anh Tuấn, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội, thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW và Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Thủ đô, có 6 dự thảo Nghị quyết sẽ tháo gỡ những điểm nghẽn nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo tạo và khởi nghiệp; trong đó có dự thảo Nghị quyết của HĐND thành phố quy định chi tiết một số chính sách đặc thù phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Thành phố Hà Nội và Nghị quyết quy định cơ chế, chính sách về đầu tư, hỗ trợ phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo của địa phương...