Sau 3 năm triển khai dạy nghề cho lao động nông thôn (đề án 1956) tỉnh Phú Thọ đã đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận.
Kết quả bước đầu…
Năm 2010, Tổng cục Dạy nghề phối hợp với tỉnh thí điểm mô hình đào tạo nghề ở xã Gia Điền, huyện Hạ Hoà, gồm 2 nghề: Nuôi lợn thương phẩm, trồng nấm cho 70 lao động. Năm 2012, tỉnh tổ chức 28 mô hình, đào tạo 16 nghề cho 896 lao động; trong đó có 9 nghề mới, 7 nghề tiếp tục thí điểm và nhân rộng. Theo đó, các nghề thuộc nhóm nghề trồng trọt, chăn nuôi mang tính phổ biến đều có khả năng nhân rộng: Trồng lúa năng suất cao, trồng ngô, trồng chè, nuôi và phòng trị bệnh cho gà (trâu, bò, lợn), nuôi cá nước ngọt. Các nghề trồng cây chuyên canh, nghề đặc thù, nghề thuộc làng nghề nếu nhân rộng, tập trung đầu tư có thể hình thành làng nghề hoặc vùng sản xuất theo hướng hàng hóa: Trồng hoa đào; trồng rau an toàn; trồng dưa bao tử; trồng chè; trồng và nhân giống nấm; nuôi rắn thương phẩm.
Nghề sản xuất cá giống đang thu hút được người dân huyện miền núi Yên Lập. |
Qua 3 năm triển khai Đề án, mạng lưới cơ sở dạy nghề được phát triển, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề được tăng cường đầu tư; chương trình, giáo trình dạy nghề được phát triển, chỉnh sửa bổ sung phù hợp nhu cầu thực tiễn từng địa phương; đội ngũ cán bộ quản lý dạy nghề các cấp và của cơ sở dạy nghề, giáo viên dạy nghề được tăng cường về số lượng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cơ bản đáp ứng yêu cầu. Ban đầu, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu lao động sang phi nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông thôn, thực hiện tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Đa số lao động nông thôn sau đào tạo nghề đã áp dụng được kiến thức, kỹ năng vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, tìm được việc làm mới, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Vẫn nhiều khó khăn
Tuy nhiên, sau 3 năm triển khai Đề án nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn là rất lớn, trong khi khả năng bố trí ngân sách trung ương còn hạn chế, ngân sách tỉnh chưa bố trí được kinh phí dạy nghề nên kết quả đào tạo chưa đạt được kế hoạch đề ra. Cơ sở vất chất cho các cơ sở dạy nghề còn thiếu, đặc biệt là các trung tâm dạy nghề mới thành lập, trung tâm dạy nghề trực thuộc các đoàn thể. Đội ngũ giáo viên cơ hữu còn thiếu, chương trình, nội dung đào tạo chưa thực sự sát với thực tế địa phương, còn nặng về lý thuyết, kỹ năng thực hành…
Học viên huyện Yên Lập thực hành sửa máy nông nghiệp. |
Chia sẻ về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Hải, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Thanh Ba cho rằng: Do một số học viên không chịu phát huy nghề đã học, đi học cho có hình thức để nhận hỗ trợ chứ chưa thật sự chú tâm vào nghề. Thời gian đào tạo nghề quá ngắn nên tay nghề của người lao động chưa cao không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp khiến người học phải tự tìm kiếm việc làm sau khi được đào tạo. Lao động nông thôn học nghề xong phải có việc làm chứ học để có nghề là chưa đi đến đích của đề án.
Gỡ “nút thắt” trong thực hiện
Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Phú Thọ, mục tiêu từ nay đến năm 2015, tỉnh đào tạo nghề cho 23.100 người trong đó lao động học nghề nông nghiệp là 60%. Tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm sau đào tạo nghề 75% trở lên, đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý cho khoảng 6.000 lượt cán bộ công chức cấp xã.
Cũng theo kế hoạch thực hiện Đề án 1956 giai đoạn 2013 - 2015, UBND tỉnh Phú Thọ đã nêu ra nhiều giải pháp, trong đó rất chú trọng khâu tuyên truyền. Mỗi địa phương phải nâng cao hơn trách nhiệm của mình xuyên suốt các khâu tuyên truyền, tuyển sinh, đào tạo, việc làm. Lâu nay chính quyền xã và đoàn thể rất ít tham gia vào Đề án 1956, nhưng trong giai đoạn tiếp theo, trách nhiệm sẽ được quy về tận cấp xã là đơn vị thực hiện chủ chốt trong khảo sát, quản lý lao động nông thôn. Các hội, đoàn thể phải nắm được các chủ trương, chính sách của đề án để tuyên truyền cho hội viên, hướng dẫn họ học nghề và chịu trách nhiệm về phần hội viên của mình.
Theo bà Đinh Thị Hợi, Phó Trưởng ban Dân tộc tỉnh: Có thực tế, tại một số vùng đồng bào dân tộc, sau khi học nghề rất ít trường hợp có việc làm, nhất là nghề phi nông nghiệp vì không quen đi xa nhà để làm việc. Về lâu dài, Trung ương cũng như tỉnh cần có chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư ở khu vực miền núi, như thế có thể giải quyết việc làm tại chỗ cho đồng bào. Đồng bào sau khi học cần nguồn vốn để xây dựng mô hình sản xuất tại gia, tự giải quyết việc làm, nhưng hiện nay mức cho vay quá ít, không xây dựng được mô hình. Nhà nước cũng cần tăng cường nguồn khuyến công tại miền núi, hỗ trợ các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số. Để đào tạo nghề có hiệu quả, việc đào tạo cần gắn liền với nhu cầu của doanh nghiệp để khi đào tạo xong người lao động có thể kiếm được việc làm.
Kim Chi - PV