Trong khi đó, tình hình phát sinh chất thải nhựa và thải bỏ túi ni-lông khó phân hủy có xu hướng gia tăng qua các năm đã và đang gây áp lực đến môi trường.
Gần 50% sản phẩm nhựa được thiết kế để sử dụng một lần
Với tính tiện dụng và giá thành hợp lý, việc sản xuất và sử dụng sản phẩm nhựa, sản phẩm nhựa dùng một lần đã phổ biến thời gian qua.
Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đánh giá, lượng chất thải rắn sinh hoạt đã và đang gia tăng về cả số lượng, thành phần và tính chất với dự báo tăng 10-16% mỗi năm. Nhiều thành phần khó xử lý và khó tái chế như vải, da, cao su có tỷ lệ thấp lại đang có chiều hướng tăng qua các năm. Trong đó, đáng chú ý là thành phần chất thải nhựa cũng gia tăng.
Báo cáo của Hiệp hội Nhựa Việt Nam cho thấy, cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp nhựa, chủ yếu ở miền Nam. Số lượng doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương và Long An chiếm 80% tổng số lượng doanh nghiệp nhựa trên cả nước, còn lại ở miền Bắc 15% và và miền Trung chỉ chiếm 5%. Trong số này, hầu hết là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, 90% là doanh nghiệp tư nhân. Số lượng doanh nghiệp và chủng loại nhựa sản xuất ngày càng đa dạng, tốc tộ tăng trưởng ngành nhựa trung bình 15%/năm. Đến nay, sản lượng nhựa khoảng 4 triệu tấn/năm, trong đó, sản phẩm nhựa bao bì (bao gồm các loại túi ni lông, chai lọ nhựa, bao bì hàng hóa…) chiếm khoảng 36%; nhựa vật liệu xây dựng, đồ gia dụng và các loại dành cho các ngành công nghiệp khác như điện tử, điện, giao thông vận tải lần lượt chiếm khoảng 16%, 36% và 12%.
Sản phẩm nhựa sử dụng một lần và túi ni lông khó phân hủy sử dụng và thải bỏ ngày càng gia tăng. Tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, gần 50% sản phẩm nhựa được thiết kế, sản xuất phục vụ mục đích sử dụng một lần và sau đó thải bỏ. Trong tổng lượng chất thải nhựa thải bỏ, chỉ có một phần được thu hồi- tái chế, một phần được xử lý bằng biện pháp thiêu đốt hoặc chôn lấp, phần còn lại không được thu gom triệt để theo dòng chảy gây ô nhiễm sông ngòi, biển và đại dương. Lượng chất thải nhựa và túi ni lông thải ra môi trường ngày càng gia tăng đe dọa nghiêm trọng đến môi trường đất, nước, không khí và đại dương nếu không được thu gom, xử lý triệt để.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Thành Lam, Vụ Quản lý chất thải (Tổng cục Môi trường), số lượng bao bì nhựa và túi ni lông sử dụng nhiều dẫn đến lượng thải bỏ tăng dần theo từng năm. Việc phân loại, thu gom chất thải nhựa và túi ni lông có thể tái chế thường mang tính chất tự phát ở quy mô hộ gia đình, người thu gom rác và nhặt phế liệu tự do. Túi ni lông sử dụng tại các chợ và trung tâm thương mại thường là loại túi siêu mỏng, khó phân hủy và bị thải bỏ sau một lần sử dụng, loại túi này rất phổ biến ở các bãi chôn lấp vì giá trị thu hồi để tái chế thấp.
Việc xử lý chất thải nhựa và túi ni lông phát sinh từ các hộ gia đình, chợ, khu vực công cộng chủ yếu được xử lý cùng với chất thải rắn sinh hoạt được thu gom. Hiện nay, một số cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã lắp đặt dây chuyền phân loại tại khu xử lý để thu hồi các chất có thể tái chế, trong đó có chất thải nhựa và túi ni lông.
Chất thải nhựa và túi ni lông có thể do con người xả thải trực tiếp hoặc bị cuốn trôi theo nước mưa xuống cống, sông, ao, hồ, biển… sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng môi trường sống và sức khỏe con người; làm giảm diện tích ao, hồ, sông; gây cản trở các dòng chảy, tắc cống rãnh thoát nước. Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước bởi túi ni lông lẫn vào đất sẽ ngăn cản ô xy đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng khiến cây trồng chậm tăng trưởng.
85% lượng chất thải nhựa phát sinh sẽ được xử lý
Luật Bảo vệ môi trường 2020 có Điều 73 về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, phòng, chống ô nhiễm rác thải nhựa đại dương. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 20/8/2020 về tăng cường quản lý tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa. Cuối tháng 7/2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam.
Đề án nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý chất thải nhựa; sản xuất và tiêu thụ túi ni lông khó phân hủy sử dụng trong sinh hoạt; sản phẩm nhựa dùng một lần sử dụng trong sinh hoạt (bao gồm cốc, chén, bát, đĩa, thìa, dĩa, ống hút, bao gói nhựa/hộp đựng thực phẩm sử dụng một lần, màng bọc thực phẩm, bộ đồ ăn nhựa dùng một lần...).
Phấn đấu đến năm 2025, các Trung tâm thương mại, siêu thị sử dụng 100% túi ni lông, bao bì thân thiện với môi trường phục vụ cho mục đích sinh hoạt thay thế cho túi ni lông khó phân huỷ. Tất cả các khu du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch, các khách sạn không sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần. Việt Nam đảm bảo thu gom, tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.
Đề án cũng nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân trong sản xuất, tiêu thụ, thải bỏ chất thải nhựa, túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.
Giai đoạn 2021-2026, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ triển khai nhiều biện pháp tăng cường công tác quản lý chất thải nhựa.
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thượng Hiền, một số nhiệm vụ và giải pháp được đề cập như điều tra, khảo sát đánh giá hiện trạng phát sinh, thu gom, xử lý chất thải nhựa và hoàn thiện chính sách, quy định về quản lý chất thải nhựa; triển khai các hoạt động đào tạo, truyền thông và hợp tác quốc tế về quản lý chất thải nhựa; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, triển khai mô hình, hoạt động quản lý chất thải nhựa và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Về cơ chế, chính sách, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ đánh giá tổng thể thực trạng sản xuất, sử dụng các sản phẩm nhựa, sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm nhựa dùng một lần và túi ni lông khó phân hủy; tình hình sản xuất và nhập khẩu sản phẩm hàng hóa chứa vi nhựa và ảnh hưởng của vi nhựa đến môi trường; phát sinh, thu gom, tái chế, xử lý chất thải nhựa và đề xuất các giải pháp, chính sách, quy định nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
Bên cạnh đó, Bộ điều tra, thống kê, phân loại và đánh giá tình hình phát sinh, thu gom, xử lý, quản lý chất thải nhựa từ các hoạt động trên biển và hải đảo Việt Nam; đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về quản lý rác thải nhựa đại dương; đánh giá việc triển khai các hoạt động thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu các sản phẩm nhựa; thu thuế bảo vệ môi trường đối với hoạt động sản xuất túi ni lông khó phân hủy; đề xuất tăng thuế bảo vệ môi trường vào thời điểm thích hợp.
Một số chính sách sẽ được xây dựng và triển khai như thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm nhựa; quy định trách nhiệm tái chế của nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm nhựa, bao bì nhựa; ban hành và thực hiện quy định, quy chế trong cơ quan, văn phòng, công sở để hạn chế tối đa việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần.
Ngoài ra, Bộ tổ chức đào tạo, tập huấn, nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi xả rác thải nhựa, ngư cụ, sản phẩm nhựa thải bỏ ra môi trường biển và đại dương đối với các doanh nghiệp, cư dân ven biển, ngư dân, thủy thủ, khách du lịch biển; hình thành mạng lưới tuyên truyền viên hướng dẫn phân loại, thu gom, tái chế, xử lý; khen thưởng, biểu dương kịp thời các tổ chức, cá nhân có các hoạt động, giải pháp, sáng kiến hay về quản lý chất thải nhựa.
Một số kế hoạch sẽ được xây dựng và triển khai đồng bộ như các khu du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch, dịch vụ, đặc biệt là vùng ven biển không sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần và túi ni lông khó phân hủy; thu gom, tái chế, xử lý chất thải nhựa trên lưu vực sông, vùng ven biển, các bãi tắm, các khu du lịch, các âu thuyền, chợ cá ven biển.
Song song với đó, Bộ tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về thu gom và xử lý chất thải nhựa phát sinh từ hoạt động du lịch biển, vận tải biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản; giảm thiểu việc thải bỏ, làm thất lạc ngư cụ khai thác thủy sản; ứng dụng công nghệ thông tin trong giám sát, quản lý hoạt động sản xuất, thu gom, vận chuyển, tái chế và xử lý chất thải nhựa; thúc đẩy phát triển thị trường tái chế, xử lý chất thải; xây dựng, cập nhật và tích hợp cơ sở dữ liệu về quản lý chất nhựa vào hệ thống cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia…
Về công nghệ, hướng tiếp cận sẽ là nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong thu gom, tái chế và xử lý chất thải nhựa; công nghệ tái chế chất thải nhựa thành nhiên liệu, vật liệu xây dựng, giao thông và sản phẩm nhựa khác; các thiết bị thu gom, vận chuyển chất thải nhựa trên sông, suối, kênh, rạch, vùng biển; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm trọng điểm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, thử nghiệm, đánh giá và chứng nhận chất lượng các các sản phẩm bao bì thay thế sản phẩm nhựa và sản phẩm túi ni lông phân hủy sinh học, thân thiện với môi trường.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi trách nhiệm quản lý đang chủ động xây dựng kế hoạch và giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị trực thuộc triển khai.