Nhận lệnh cấp trên, ngày 11 tháng 10 năm 1962, con tàu gỗ đầu tiên có tên Phương Đông 1 do Lê Văn Một làm thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa làm chính trị viên cùng 12 cán bộ chiến sĩ xuất phát từ Thung lũng xanh, Đồ Sơn, Hải Phòng hải trình vào Vàm Lũng tỉnh Cà Mau. Trên con tàu gỗ nhỏ bé ấy có 30 tấn vũ khí và cả niềm tin yêu của Đảng và quân dân miền Bắc gửi gắm nhân dân miền Nam ruột thịt. Trước ngày rời bến, Phó Thủ tướng Phạm Hùng căn dặn “Đây là chuyến đi cực kỳ quan trọng. Nếu gặp địch phải mưu trí, khôn khéo, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy tàu để giữ bí mật con đường. Các đồng chí nên nhớ, người đi lo một, người ở nhà chờ tin lo mười”.
Lời động viên của đồng chí Phạm Hùng vừa là mệnh lệnh, vừa chân thành sẻ chia với các chiến sĩ trước khi vượt biển. Chuyến đi ấy, ai cũng xác định sẽ vô cùng gian khổ, nhưng trong lòng luôn phơi phới niềm vui và sẵn sàng hi sinh, dẫu vẫn biết phía sau lưng mình là gia đình, vợ, con và bao người thân mong đợi. Nhưng miền Nam đang gọi không cho phép người lính dừng bước, mà chỉ tiến về phía trước. Trước ngày vượt biển, Nguyễn Văn Một và Bông Văn Dĩa cùng 12 chiến sĩ đã thề vì Tổ quốc sẵn sàng hi sinh. Đó là ngày 11 tháng 10 năm 1962- một ngày mùa đông giá rét như cắt da cắt thịt. Thuyền trưởng Một, chính trị viên Dĩa cùng 12 chiến sĩ đứng dưới ở khoang giữa của tàu. Lê Văn Một nói “Ngay sau đây cán bộ chiến sĩ Tàu Phương Đông 1 chúng tôi vượt biển, chở vũ khí đạn dược cho miền Nam chiến đấu. Đây là con tàu đầu tiên. Cuộc chiến đấu này sẽ vô cùng khó khăn gian khổ. Chúng tôi xin thề, sẽ quyết tâm vượt biển đưa 30 tấn vũ khí đến nơi an toàn. Cho dù phải hi sinh tính mạng, nhưng những tấn vũ khí này phải được chuyển vào Nam. Cà Mau gọi, chúng ta trả lời”. 14 cán bộ, chiến sĩ bắt tay nhau siết chặt. Trong tiếng gió rít vùng biển Đồ Sơn, giọng Bông Văn Dĩa ấm áp thân tình “Từ hôm nay, chúng ta là anh em ruột thịt một nhà, thà chết chứ không lùi bước”. 14 con người trên chiếc tàu gỗ nhỏ bé là 14 nỗi niềm riêng, 14 tâm trạng, nhưng có một niềm tin chung đó là quyết tâm vượt biển và thắng lợi trở về.
Con tàu Phương Đông 1 rời bến Thung Lũng xanh đi trong muôn vàn sóng gió. Ông Ngô Văn Tân, nguyên là chiến sĩ tàu Phương Đông 1 ngày ấy hiện đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh kể lại: Theo kế hoạch, tàu Phương Đông hành trình 5 ngày là đến Vàm Lũng, nhưng gặp sóng to gió lớn và vòng trách tàu địch bố phòng, tuần tra nên phải mất 9 ngày mới đến nơi. Ngày thứ 8, khi tàu đến vùng biển Cà Mau thì chúng bám theo và đánh điện hỏi “Tàu nào? Từ đâu tới?”. Ta không trả lời, chúng bèn bắn pháo dữ dội. Thuyền trưởng Lê Văn Một đã lệnh cho tàu tăng tốc, chỉ huy bộ đội căng buồm hỗ trợ cho máy, lướt nhanh về phía trước. Một tổ chuẩn bị bom thủy lôi thả xuống biển, chờ tàu địch tới dựt nổ. Tất cả vào vị trí chiến đấu. Các loại súng AK, lựu đạn, bộc phá được huy động tối đa. Nếu trường hợp không thoát thì nổ 3 trái bom, hủy tàu, quyết không để tàu và vũ khí rơi vào tay giặc. Một nói với Dĩa: “Nếu thủ tiêu tàu, anh và anh em cắt dây nhảy xuống biển bơi vào bờ báo cáo với Trung ương, còn lại để tôi lo”.
Gần 1 đêm rượt đuổi trên biển, tàu Phương Đông đã nghi binh cắt đuôi tàu địch, nhanh chóng vào bến an toàn. 30 tấn vũ khí đạn dược đầu tiên mở đầu cho cuộc vận chuyển cập bến Vàm Lũng an toàn.
Sau chuyến vượt biển đầu tiên vào Vàm Lũng thành công, Lê Văn Một được cử làm thuyền trưởng tàu gỗ 41, chở vũ khí vào miền Đông Nam bộ, mở bến Lộc An chi viện cho chiến dịch Bình Giã tại đồn Phước Hải đêm 3/10/1963. Trong lần vận chuyển mới này, Lê Văn Một đã ứng xử rất linh hoạt, thông minh, bảo đảm đưa hàng tới bến an toàn. Cả hai lần vượt biển, thuyền trưởng Lê Văn Một đã khôn khéo nghi binh, lừa địch, đều xử lý linh hoạt, thoát khỏi vòng vây địch bằng kinh nghiệm đi biển và tinh thần quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Người huyền thoại
Lê Văn Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ khoa yêu nước Nguyễn Hữu Huân đất Tiền Giang. Từ lúc lọt lòng, ông có tên Pháp là Abel René. Abel René là con thứ 11 trong một gia đình giáo học quốc tịch Pháp có 13 anh em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho ,Tiền Giang lúc bấy giờ. Cậu bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ học tập, được bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường Tiểu học Mỹ Tho, Trường Lê Bá Cang - Sài Gòn... rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng Long. Đến tuổi trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm “nghĩa vụ” với mẫu quốc Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet - tuần dương hạm lớn nhất Đông Dương.
Cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt mới đến với Abel René. Luồng gió mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: Ông đã tự nhận thức được rằng: La france ce n’est pas ma Ptrie. Tức là “Nước Pháp không phải là quốc mẫu của tôi”. Nên ngay cái tên rất Pháp cũng phải được đổi. Khi ông cùng bạn bè tìm đường theo cách mạng kháng chiến, cũng là lúc ông đổi tên Abel René thành Lê Văn Một.
Tháng 12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lực lượng vũ trang Nam bộ “Thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi dần về Đồng Tháp Mười và rừng U Minh. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một và 12 người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng Dương Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng Cốc (Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường xuyên Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam bộ. Khi ấy Lê Văn Một được giao trọng trách mang theo 25 kg vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để mua vũ khí.
Chuyến chở vũ khí từ Thái Lan về Việt Nam đầu tiên vào cuối năm 1947 do Lê Văn Một chỉ huy. Khi ấy ông tổ chức 10 xe bò, 10 voi, 70 người, vận chuyển bằng đường bộ qua Campuchia về nước. Súng theo voi, đạn đeo lưng người. Trải qua 16 ngày trèo núi, vượt sông, băng rừng trong điều kiện địch ngăn chặn đường, phục kích tiêu diệt. Ông đã chỉ huy đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất Campuchia. Đầu tháng 1/1948, đoàn về đến Nam bộ. Cuộc vận chuyển này có 11 người hy sinh và mất tích. Thấy vận chuyển đường bộ gian khổ, hiệu quả thấp, Lê Văn Một tính cách chuyển sang vận chuyển bằng đường biển. Chuyến vượt biển đầu tiên ngay sau đó được “cặp đôi” Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa chở vũ khí từ Thái Lan về Nam bộ. Chuyến đi này gặp bão tố và lốc biển, tàu phải ghé vào đảo Phú Quốc để tránh. Gần một tháng tại đây, cả đoàn phải đào củ chuối rừng ăn cầm hơi. Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi đi, về về trên Vịnh Thái Lan, đơn vị đã vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam bộ. Những chiến công thầm lặng đó đã tạo tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông sau này của Đảng ta.
Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được ghi trong Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa - Vũng Tàu” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới trên con đường Hồ Chí Minh trên biển. Ông được Nhà nước công nhận liệt sĩ và truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba vì những đóng góp của ông vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của tập thể tàu Phương Đông 1 mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm đi tiên phong, “khai sơn phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng kiên cường của dân tộc ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao giờ nhạt phai, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Mai Thắng
Kỳ 12: Câu chuyện của thuyền trưởng Nguyễn Tấn Ích