Đại diện Tổng LĐLĐ Việt Nam thông tin về khảo sát tiền lương, thu nhập và đời sống công nhân lao động năm 2018.
|
Đợt khảo sát này do Viện Công nhân - Công đoàn (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam) diễn ra trong 3 tháng gần đây tại 25 tỉnh thành thuộc có đông lao động trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, đại diện các loại hình doanh nghiệp và vùng lương. Mẫu thu thập lấy ý kiến với 3.008 phiếu hỏi với số lao động tại 150 doanh nghiệp.
Điểm đáng chú ý là tiền lương cơ bản hàng tháng của người lao động (NLĐ) khi làm đủ giờ công, ngày công sẽ nhận được trung bình là hơn 4,6 triệu đồng. Theo thống kê từ các doanh nghiệp khảo sát, tiền lương cơ bản trung bình của NLĐ sản xuất trực tiếp là 4,23 triệu đồng/tháng (Vùng I là 4,76 triệu; vùng II là 4,57 triệu đồng; vùng III là 4,14 triệu đồng; vùng IV là 3,32 triệu đồng); lao động gián tiếp, văn phòng là 6,52 triệu đồng/tháng; cán bộ quản lý người Việt Nam là 9,5 triệu đồng. Lao động và quản lý người nước ngoài là 30,3 triệu đồng/tháng.
Ngoài tiền lương cơ bản, NLĐ làm việc còn nhận được tiền làm thêm giờ, tiền chuyên cần và các khoản phụ cấp, trợ cấp, hỗ trợ khác từ doanh nghiệp với nhiều tên gọi khác nhau để tăng thu nhập, giữ chân NLĐ, nhưng các khoản này thường không tính vào mức đóng bảo hiểm xã hội (trừ phụ cấp trách nhiệm, chức vụ). Cụ thể, có tới có 44% NLĐ được hỏi cho biết có làm thêm giờ, số giờ làm thêm trung bình là 28,5 giờ (cao nhất là 50 giờ), với số tiền nhận được trung bình 832.000/người/tháng.
Tổng thu nhập trung bình của NLĐ (không kể tiền ăn ca) đạt gần 5,53 triệu đồng/tháng (cao hơn lương cơ bản là 18,4%), tăng hơn 1,4% so với kết quả khảo sát năm 2017. Tiền lương cơ bản chiếm 84,4% tổng thu nhập của NLĐ. Trong đó, tại doanh nghiệp FDI tỷ lệ này chiếm 77,3%; giày da, chiếm 80,5%; cơ khí, chế tạo kim loại là 75,5%; điện, điện tử là 78,6%; dệt may 81,4%. Mức chênh lệch giữa tiền lương thấp hơn thu nhập tại các DN chế biến nông lâm thủy sản, giao thông – xây dựng, dịch vụ thương mại chỉ khoảng 8 -9%; DNNN chỉ khoảng 6 %, thấp hơn so với chênh lệch ở các DN dân doanh (15,6%). Nhưng đó là khoản thu nhập đáng kể để cải thiện đời sống NLĐ.
Vẫn còn một bộ phận NLĐ nhận mức lương cơ bản thấp hơn mức tối thiểu vùng, cụ thể vùng I là 2,35%; vùng II là 10,87%; vùng III là 3,34% và vùng 4 là 4,45%.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Quang Thọ, Viện trưởng Viện Công nhân – Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho biết: Nhiều doanh nghiệp chỉ trả nhỉnh hơn lương tối thiểu vùng để lách luật, giảm mức đóng BHXH cho người lao động. Do đó để có thêm thu nhập, các công nhân đã phải làm thêm giờ. Số giờ làm thêm quá nhiều khiến họ không còn thời gian để chăm lo cho bản thân và gia đình. Đó là lý do Tổng LĐLĐ đề xuất phải tăng mức lương tối thiểu để người lao động đảm bảo mức sống tối thiểu. Do đó mức tăng lương tối thiểu vùng mà Tổng LĐLD đề xuất 8% là có căn cứ về cả pháp lý và thực tiễn.
Cũng theo khảo sát này, điểm đáng chú ý, khối doanh nghiệp FDI trả lương cơ bản thấp nhất với hơn 4,2 triệu đồng/tháng; còn theo ngành nghề, lĩnh vực giày da, điện, điện tử, dệt may, mức lương cũng chỉ ở mức trên 4,2 triệu. Do mức tiền lương cơ bản thấp hoặc ít các khoản phụ cấp để nâng cao thu nhập đảm bảo cuộc sống là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp lao động và đình công vẫn xảy ra.