Theo Tổng cục Thuế, hiện vẫn còn tình trạng thất thu ngân sách Nhà nước (NSNN), nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó tập trung những lĩnh vực như: xây dựng cơ bản, khai thác tài nguyên, khoáng sản, kinh doanh phương tiện vận tải tư nhân, kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh thương mại điện tử bán hàng qua mạng, xe máy, khách sách sạn, nhà hàng ăn uống, cho thuê tài sản...
Nhân viên Đội Kê khai thuế (Chi cục Thuế thành phố Lạng Sơn) kiểm tra hồ sơ kê khai thuế của cá nhân và doanh nghiệp. Ảnh minh họa: Hoàng Hùng/TTXVN. |
Công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế mới đây đã nhận diện các hành vi vi phạm như: Hành vi bỏ ngoài sổ sách kế toán - đây là thủ đoạn khá phổ biến hiện nay. Theo đó, người nộp thuế thường sử dụng đồng thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống sổ kế toán nội bộ phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ phản ánh một phần các giao dịch kinh tế để khai thuế. Kiểu hành vi này thường xảy ra ở các doanh nghiệp dân doanh hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, ăn uống, khách sạn, xây dựng dân dụng và sản xuất nhỏ. Đây chính là một kiểu hoạt động kinh tế mà môi trường thuận lợi của nó là nền kinh tế tiền mặt. Rất khó có thể xác định được số thuế thất thu do hành vi trốn thuế này gây ra vì nếu xác định được thì đã không xảy ra thất thu thuế.
Tạo giao dịch mua hàng giả mạo- đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế doanh nghiệp không có khoản chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì thế có thể gọi đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng lao động giả mạo (có trường hợp tên người lao động không có thật; có trường hợp tên người lao động là có thật nhưng thực sự không làm việc cho doanh nghiệp đó) và thể hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh doanh khác. Bằng hành vi này, doanh nghiệp không chỉ trốn thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn trốn cả thuế giá gị gia tăng (GTGT) thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào.
Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với thủ đoạn thành lập doanh nghiệp “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả mạo không chỉ thực hiện thông qua hành vi mua hóa đơn, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết. Doanh nghiệp “ma” là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế không sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế.
Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế - hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi này thường gặp ở các doanh nghiệp kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu, kinh doanh vật liệu xây dựng, bán ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất... Các công ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây dựng vãng lai) khi thi công các công trình ở các địa phương khác hay xây nhà tư nhân thường khai báo không trung thực, không kê khai hoặc giấu bớt một phần công trình. Hành vi gian lận này làm giảm thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến số thu ngân sách hàng năm.
Các dạng hạch toán sai nhằm tăng chi phí được trừ tính thuế thu nhập doanh nghiệp và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ chủ yếu là: hạch toán toàn bộ chi phí mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ bản vào chi phí quản lý DN; đưa khấu hao tài sản cố định phúc lợi vào chi phí khấu hao tài sản cố định; tài sản cố định hết thời gian khấu hao vẫn trích khấu hao; hạch toán vào chi phí được trừ các khoản chi từ thiện, các khoản chi thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ, chi mang tính chất tiêu dùng cá nhân của chủ doanh nghiệp...
Một số hành vi vi phạm đối với các doanh nghiệp lỗ, các doanh nghiệp quan hệ giao dịch liên kết có dấu hiệu chuyển giá: Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thông qua việc góp vốn vào doanh nghiệp Việt Nam bằng máy móc, thiết bị và công nghệ. Giá trị máy móc thiết bị công nghệ do nhà đầu tư nước ngoài góp thường mang tính đặc thù, đã bị lạc hậu hoặc đã khấu hao hết nhưng lại được đẩy lên rất cao so với giá trị thực của nó, nâng khống giá trị vốn góp, gây thất thu cho NSNN và bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam; thông qua bán hàng hoá, nguyên vật liệu thấp hơn nhiều so với giá bán cho các bên không có quan hệ liên kết; thông qua chuyển giao công nghệ: cùng với việc góp vốn vào doanh nghiệp Việt Nam bằng máy móc, thiết bị hoặc bán máy móc thiết bị cho doanh nghiệp liên kết tại Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài còn thực hiện chuyển giao công nghệ sản xuất kinh doanh cho bên liên kết tại Việt Nam và thu tiền bản quyền…
Các tập đoàn công ty mẹ tại nước ngoài ký hợp đồng sản xuất kinh doanh và dịch vụ với các công ty của các nước với đơn giá gia công sản xuất dịch vụ rất cao, sau đó các tập đoàn công ty mẹ này giao lại các hợp đồng này cho các công ty con thành lập tại Việt Nam thực hiện sản xuất gia công dịch vụ và xuất thẳng cho các công ty mà công ty mẹ đã ký hợp đồng, nhưng lại không thu được tiền trực tiếp từ các công ty đã xuất hàng hoá dịch vụ mà lại thu tiền theo đơn giá gia công sản xuất dịch vụ do công ty mẹ quy định với đơn giá gia công sản xuất dịch vụ rất thấp; thông qua chi trả lãi vay vốn sản xuất kinh doanh. Giá bán hàng hóa dịch vụ xuất khẩu cho nước ngoài, chủ yếu bao tiêu sản phẩm qua công ty mẹ có hiện tượng giá bán hoặc giá gia công thấp hơn giá vốn dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh liên tục lỗ mất vốn nhiều năm; Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, tiêu dùng có các nhãn hàng nổi tiếng bên nước ngoài thường định giá tiền bản quyền thương hiệu rất cao so với giá trị thực.
Theo các chuyên gia trong ngành, nguyên nhân là do công tác quản lý thuế vẫn còn một số hạn chế như: Hệ thống chính sách thuế vẫn còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội, còn nhiều mức miễn, giảm thuế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lách thuế, dễ phát sinh tiêu cực giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý; chính sách thuế liên tục thay đổi, giữa các sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế còn thiếu sự kết hợp hài hoà, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua từng sắc thuế...