Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy hiện hành
Theo Bộ trưởng Tô Lâm Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập; một số quy định của Luật Phòng, chống ma túy hiện hành không thống nhất, đồng bộ với quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính mới được ban hành… do vậy đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác phòng, chống ma túy. Bên cạnh đó, do sự thay đổi tình hình, một số quan hệ xã hội mới xuất hiện liên quan đến công tác phòng, chống ma túy nhưng chưa có quy định của luật để điều chỉnh.
Ngày 16/8/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW về “Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy” trong đó xác định “sớm sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản pháp luật khác có liên quan theo hướng đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn công tác phòng, chống ma túy, có chế tài nghiêm khắc hơn đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy…”. Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy hiện hành là cần thiết.
Cũng theo Bộ trưởng Tô Lâm, việc xây dựng Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống ma túy và khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008). Cùng với đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phòng, chống ma túy; trong đó, lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt, chủ trì công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy. Đồng thời, nâng cao nguồn lực cho công tác phòng, chống ma túy; quản lý tốt người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy, góp phần ngăn chặn, đấu tranh từng bước loại trừ tệ nạn ma túy, tội phạm ma túy ra khỏi đời sống xã hội; ngăn chặn có hiệu quả nguồn ma túy thẩm lậu vào trong nước.
Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được xây dựng trên cơ sở quan điểm chỉ đạo là quán triệt và thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống ma túy; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan; phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Sau khi hoàn thành việc lập Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật, Bộ Công an đã tổ chức triển khai xây dựng dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở kế thừa Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) và cụ thể hóa 3 nhóm chính sách được Chính phủ thông qua trong đề nghị xây dựng dự án Luật. Dự thảo Luật gồm 8 chương, 69 điều; so với Luật hiện hành có 15 điều mới, sửa đổi, bổ sung 47 điều, giữ nguyên 7 điều.
Làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
Trình bày Báo cáo số 3028/BC-UBVĐXH14 thẩm tra dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội (Ủy ban) Nguyễn Thúy Anh cho biết: Ủy ban nhất trí sự cần thiết sửa đổi Luật và dự thảo bổ sung các nội dung “quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy”, “cai nghiện ma túy”, “quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy” tại quy định về phạm vi điều chỉnh.
Ủy ban đề nghị Chính phủ làm rõ sự cần thiết của việc bổ sung nội dung phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm ma túy tại Điều 1 khi mà các quy định cụ thể của dự thảo Luật không mở rộng phạm vi này so với Luật hiện hành, cũng như làm rõ việc không chồng chéo phạm vi điều chỉnh này với Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và các văn bản pháp luật khác.
Về trách nhiệm, quyền hạn của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy (Điều 12), Ủy ban cho rằng, để công tác phòng, chống ma túy đạt được hiệu quả, các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy (thuộc Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan), trong khu vực, địa bàn quản lý, cần được giao quyền chủ động nhưng đồng thời cần phối hợp với nhau thực hiện các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hoạt động bất hợp pháp liên quan đến ma túy. Do đó, Ủy ban đề nghị giữ như điểm a, khoản 1, Điều 13 Luật hiện hành. Theo đó cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân có trách nhiệm “chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện các hoạt động ngăn chặn, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy”.
Về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy (Chương IV), Ủy ban đề nghị Cơ quan soạn thảo cung cấp thêm thông tin giải trình sự khác nhau về thời hạn quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy từ đủ 18 tuổi và dưới 18 tuổi. Bên cạnh đó, cân nhắc bổ sung trường hợp các lực lượng chuyên trách phòng chống ma túy khi phát hiện người sử dụng trái phép chất ma túy thì có thể tiến hành xử lý phân luồng đối tượng, chuyển các tài liệu liên quan cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú chứ không phải Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và nghiên cứu bổ sung quy định về biện pháp cưỡng chế trong trường hợp người được yêu cầu xét nghiệm không chấp hành việc xét nghiệm trong thời gian được quản lý tại cộng đồng.
Đối với nội dung liên quan đến cơ sở cai nghiện ma túy (Điều 32), Ủy ban thấy rằng, Điều 32 nên quy định rộng hơn là “Cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy”, trong đó nêu rõ các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện. Đồng thời, bổ sung các điều, khoản riêng quy định về mô hình, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cách thức tổ chức cai nghiện... của từng loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy.