1.989 cơ sở giáo dục nghề nghiệp Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN |
Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy, cả nước hiện có 1.989 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có 1.337 cơ sở công lập, chiếm 67%, gồm 331 trường cao đẳng, 350 trường trung cấp và 656 trung tâm.
Theo cơ quan quản lý (chủ quản), 166 cơ sở thuộc các bộ, ngành; 1.002 cơ sở thuộc địa phương; 160 cơ sở thuộc các tổ chức chính trị xã hội và 9 trường thuộc doanh nghiệp nhà nước.
Theo vùng kinh tế - xã hội, 33% cơ sở ở vùng đồng bằng sông Hồng, 21% ở Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, 17% ở vùng Đông Nam bộ, 16% ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, 4% ở vùng Tây Nguyên và 9% ở vùng Trung du miền núi phía Bắc.
Số lượng nhà giáo và cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là 91.555 người. Trong đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập có 71.771 người, chiếm 78%, gồm cơ quan có thẩm quyền giao là 61.005 người (chiếm 85%), lao động hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP là 10.766 người (chiếm 15%).
Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp cho biết, từ năm 2017, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp nên bước đầu khắc phục được sự phân chia quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Hệ thống văn bản pháp luật đã phân cấp mạnh mẽ cho cơ quan quản lý nhà nước địa phương và cơ sở giáo dục nghề nghiệp, góp phần thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý, điều hành cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Các cơ quan chủ quản bước đầu rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, trao quyền chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy và nhân sự; quản lý chi tiêu tài chính hiệu quả theo quy định.
Các quy định pháp lý để huy động nguồn lực cho giáo dục nghề nghiệp đã được thiết lập. Nguồn lực giai đoạn vừa qua đã bước đầu phát triển theo hướng xã hội hóa.
Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mô hình hoạt động. Hầu hết các tỉnh, thành phố đã có trường cao đẳng, trung cấp; đã quy hoạch mạng lưới 45 trường nghề chất lượng cao và 26 nghề cấp độ quốc tế, 34 nghề cấp độ khu vực ASEAN và 100 nghề cấp độ quốc gia.
Hình thành và phát triển được một số trường nghề đặc thù để đào tạo cho người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và trường đào tạo các ngành y tế, ngành năng khiếu văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao...
Một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập thành lập các đơn vị để liên doanh, liên kết và chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp nhằm gắn công tác đào tạo nghề nghiệp với thực tiễn và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời tạo nguồn thu cho nhà trường, qua đó khuyến khích công tác nghiên cứu khoa học, tận dụng các trang thiết bị hiện có.
Tuy nhiên, những hạn chế cũng được Thứ trưởng chỉ ra, đó là: chưa phân cấp triệt để cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp được quyền quyết định về chỉ tiêu biên chế, số người làm việc, cơ chế tuyển dụng, sử dụng, quản lý; lương vẫn hưởng theo ngạch bậc; chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục nghề nghiệp và thị trường lao động; còn tình trạng lãng phí, thiếu hiệu quả trong đầu tư cơ sở vật chất thiết bị ở một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Học phí chưa được tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo; mức trần học phí giáo dục nghề nghiệp thấp, nhất trong các bậc học, trình độ đào tạo trong khi chi phí đào tạo lớn. Khi tính đúng, tính đủ do chi phí khấu hao lớn sẽ khó khăn với khả năng đóng góp của người học…
Băn khoăn về cơ chế chủ quản Các ý kiến thảo luận tại buổi làm việc cho rằng mục tiêu đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập không phải là để kìm hãm, để hạn chế mà là để phát triển, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội.
Theo Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân, cần đẩy mạnh phân cấp về tài chính, bộ máy, bởi có phân cấp được mới tính đến tự chủ và xã hội hóa được.
Từ nay đến năm 2020, cần có lộ trình về tự chủ chi thường xuyên, tiến tới tự chủ hoàn toàn và xã hội hóa đơn vị sự nghiệp công lập; từng bước có lộ trình xóa bao cấp với đơn vị sự nghiệp công lập, hướng tới nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng hưởng dịch vụ.
Nhiều ý kiến băn khoăn về cơ chế chủ quản đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập của các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội.
Bộ trưởng Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho rằng quan điểm của các bộ rất khác nhau. Bộ Công Thương muốn chuyển nhiệm vụ cơ quan chủ quản đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của bộ cho địa phương.
Bộ Quốc phòng lại chỉ muốn chuyển một số trường cho địa phương, các trường trọng điểm lại muốn chuyển cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Quan điểm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy, sẽ chuyển nhiệm vụ cơ quan chủ quản đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập của các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội về UBND các địa phương thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính theo lãnh thổ trên địa bàn.
Đại diện Trường Cao đẳng công nghệ quốc tế Lilama 2 (Bộ Xây dựng) cho rằng, một số trường nên để lại các bộ, giao cho địa phương quản lý là không chuyên sâu.
Bộ sẽ quản lý nhà nước đối với các trường, Hội đồng trường là cánh tay nối dài của bộ, điều đó không làm mất đi quyền điều hành của hiệu trưởng.
Các trường kỹ thuật công nghệ nằm ở các khu trung tâm, khu công nghiệp phải hướng đến tự chủ, để thị trường điều tiết, đào tạo được nhiều, hoạt động tốt, không tuyển sinh được thì phải teo lại. Chuyển từ cơ chế cấp phát ngân sách theo đầu vào sang cơ chế Nhà nước đặt hàng cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
Quang cảnh buổi làm việc. Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN |
Không đồng tình với quan điểm này, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đặt vấn đề: những trường ở khu vực miền núi, hải đảo, các trung tâm nghề có tự chủ được không? Có khấu hao được toàn bộ tài sản vào phí không? Nhận định tự chủ mạnh nhưng nâng phí lên, Nhà nước phải chi trả nhiều hơn, Phó Thủ tướng cho rằng vẫn phải có bàn tay hữu hình của Nhà nước.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Bùi Sỹ Lợi nêu rõ hai vướng mắc của giáo dục nghề nghiệp. Đó là quy mô quá nhiều nên cung đào tạo lớn hơn cầu sử dụng, phân bổ không đồng đều các vùng kinh tế; cơ cấu, chất lượng đào tạo vừa thừa, vừa thiếu.
Tỷ lệ đại học, trên đại học/trung học chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật của nước ta là 1-1,3-0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1- 4 -10.
Nhìn nhận không tái cơ cấu lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp thừa vẫn thừa mà thiếu vẫn thiếu, ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng, không phải nơi nào cũng xã hội hóa, tự chủ được, phải chỉ ra cái gì Nhà nước làm, trong 1.337 cơ sở giáo dục công lập, bao nhiêu cơ sở tự chủ, tự chủ ở mức độ nào.